Vì đánh mất nhành cây Mê Cốc, lại thêm đêm càng lúc càng đen, có thể đi ra khỏi Đông Hải đã là may lắm rồi, vì thế, ta chỉ mong ngóng trời sáng để còn gấp rút về Thanh Khâu.
Nhưng Đông Hải bốn bề là những con đường nước. Từ khi chào đời đến giờ, khi vẫn còn là một con hồ ly, ta đã sống trên mặt đất, bây giờ nhìn bốn con đường này đều thấy giống hệt nhau, không có gì khác biệt. Vì thế lên khỏi mặt nước ta mới phát hiện mình đã nhầm phương hướng, đã nhầm con đường phía bắc thành phía đông.
Giờ trước mắt trăng sáng vằng vặc treo giữa bầu trời. Ta ngồi trên một tảng đá ngầm ở bờ bắc của Đông Hải, thực sự có chút buồn bực.
Đi ngược về đường cũ, từ Đông Hải bơi về cố nhiên không khó, nhưng nếu lại gặp phải Dạ Hoa Quân, xét về mặt thể diện thì thực không hay lắm. Đêm nay cũng chỉ có thể ngồi ở bờ bắc này mà qua một đêm, sớm ngày mai sẽ tính sau.
Chốn nhân gian vào tháng tư hoa cỏ thơm đã hết, ban ngày vẫn ấm áp, nhưng ban đêm lại vô cùng lạnh lẽo. Xiêm y mặc trên người rất mỏng manh, hơi trắng từ biển bốc lên nghi ngút khiến ta liên tục hắt hơi, cuối cùng vẫn nhảy khỏi tảng đá, cắm đầu chạy thẳng vào khu rừng bên cạnh.
Khu rừng này không bì được với khu rừng chỗ Chiết Nhan. Cây cối cao vút mà chập chùng, xòe từng tầng, từng tầng lá, chắn gió rất tốt. Đã chắn gió rất tốt thì chắn sáng tự nhiên cũng không tồi. Tuy là vầng trăng giữa trời đang tỏa sáng nhưng giữa rừng, giơ bàn tay lên vẫn chẳng nhìn thấy năm ngón. Ta gỡ dải lụa trắng băng mắt xuống, nhìn kỹ cảnh vật, rồi lấy từ ống tay áo ra một viên dạ minh châu to bằng quả trứng bồ câu, định bụng tìm một chạc cây nằm qua một đêm trên đó.
Khu rừng này thực sự quá hỗn độn, tuy cũng là loài thú chạy, lại có dạ minh châu chiếu sáng, nhưng đôi mắt này của ta lại chẳng bằng đồng loại. Loạng choạng đi tới ngã ba, ta đã vô ý rơi vào một cái động lớn dưới chân.
Tứ ca cùng với Chiết Nhan viết sách, đã thu thập không ít câu chuyện hoang đường trong cõi bốn bể tám cõi.
Có lần nghe nói trong chúng tiên ở Đông Hoang có một ngọn núi cô độc tên là Diễm Không, dưới chân núi có dựng một cái cổng chào, dưới cổng chào có một cái động không đáy, ở đó có một yêu nghiệt xinh đẹp sinh sống. Yêu nghiệt đó tuy rằng xinh đẹp tuyệt vời nhưng cũng là một yêu tinh tốt, có điều lại yêu một người phàm trần tu chân, mà người đó lại một lòng muốn thành tiên, rốt cuộc làm chuyện bại hoại, sau này đã làm hủy hoại đạo hạnh tu hành, cũng liên lụy tới tính mạng của tất cả mọi người trên núi, cũng coi như là một bài học.
Còn bây giờ cái động lớn mà ta lọt xuống tuy có hơi sâu, nhưng quyết không thể coi là động không đáy ở núi Diễm Không đó. Nhưng cho dù như thế, dưới động cũng chưa chắc đã có một yêu nghiệt xinh đẹp mà si tình sinh sống. Nếu như có thể gặp thì cứ gặp, ta sẽ điểm hóa cho nàng ta, tặng cho tứ ca, để trông nom vật cưỡi của huynh ấy tên là Tất Phương điểu, cũng coi như ra khỏi Thanh Khâu lại làm được một chuyến thiện duyên.
Nghĩ đến đó, ta cũng an lòng mà mạnh dạn đi xuống phía dưới động. Mới đầu thực sự có chút khó chịu, ngã xuống đến nửa giờ vẫn không thể lấy lại được tư thế thăng bằng, coi như là ngã rất có trật tự.
Nửa tuần hương trôi đi, hai chân ta cũng coi như đã chạm đất thực.
Cảnh vật trước mắt trở nên rõ ràng rộng mở. Trên vòm trời tạo ra bằng pháp thuật là trăng sao sáng vằng vặc, phía dưới là một dòng suối chảy róc rách, trên nước còn dựng một tòa thảo đình, so với động Hồ Ly của cha mẹ ta nơi đây có phần rộng rãi hơn một chút.
Trong tòa thảo đình kia có một đôi nam nữ đang diễn trò uyên ương đạp nhau.
Ta vốn muốn tìm một yêu nghiệt còn chưa làm điều ác để điểm hóa, nào ngờ lại bắt gặp cảnh người ta vui thú khuê phòng, thực sự xấu hổ chết đi được.
Người đàn ông đó vì quay lưng về phía ta nên ta không nhìn rõ tướng mạo. Nửa khuôn mặt của người con gái đang vùi trong bờ vai của người đàn ông, mày mắt cũng khá được, chỉ là nhìn thấy ta từ trong động tối om rơi xuống, khó tránh khỏi có chút hoảng hốt.
Ta mỉm cười thân thiện với nàng ta để trấn an. Nàng ta lại trừng mắt nhìn ta, khiến ta cảm thấy ngại ngùng. Vì hai người họ là một đôi ôm ôm ấp ấp, người đàn ông đó có lẽ cảm nhận được sự khác thường liền quay đầu lại nhìn.
Cách một nửa hồ nước lớn, ánh mắt đó lại khiến ta có cảm giác như giữa trời mùa hạ nóng nực lại đi đốt mỡ lợn nóng bỏng tay, vừa ngấy lại vừa kinh.
Một số chuyện đã nhiều năm nay cố ý quên đi, lúc này lại lũ lượt tràn về. Hai hàng lông mày hắn ta nhíu chặt lại, nhìn chằm chằm vào ta, hồi lâu mới nói: “A Âm”.
Ta cụp mắt xuống, nghiêm túc nói: “Hóa ra là Ly Kính Quỷ Quân, lão thân và Quỷ Quân sớm đã ân đoạn nghĩa tuyệt, hai chữ A Âm thực sự không nên, vẫn là cảm phiền Quỷ Quân gọi ta bằng cái danh hão lão thân đi”.
Hắn ta im lặng, còn người con gái trong lòng run lên hai cái.
Ta thực sự không kiên nhẫn nổi. Nhưng mấy năm gần đây đám thần tiên hậu bối và quỷ tộc cư xử cũng không tồi, không thể vì ân oán của riêng ta mà hủy hoại tình hữu nghị khó khăn lắm mới xây dựng được. Suy nghĩ rất lung như vậy, sắc mặt tuyệt đối không thể làm ra vẻ lạnh lùng được.
Hắn thở dài: “A Âm, nàng trốn ta đã bảy vạn năm, nay vẫn định trốn tiếp ư?”. Lời lẽ hết sức chân thành, dường như không được gặp ta thì thật hối tiếc, thực khiến cho người ta sụt sùi thương cảm.
Ta rất tò mò, rõ ràng quan hệ của chúng ta đã là cá chết lưới rách đến mức gặp nhau chẳng thà đừng gặp, vậy sao hắn có thể nói ra những lời như thể tri kỷ của nhau vậy?
Lại thêm nói ta trốn hắn, đúng là oan tày trời, tuy rằng nói thời gian sống quá dài thì cũng khó mà quên được. Ta day day huyệt Thái Dương nhớ lại một hồi những chuyện xưa, nhưng vẫn cảm thấy, bảy vạn năm nay ta với hắn chưa từng gặp mặt, tuyệt đối không phải là ta chủ tâm trốn hắn, mà là duyên phận chưa tới mà thôi.
Bảy vạn năm nói dài cũng không dài, nói ngắn cũng chẳng ngắn, Đông Hoang đã xảy ra chuyện bãi bể biến nương dâu tới hơn hai chục lần là hết cỡ.
Một ngày nào đó bảy vạn năm trước, tiền Quỷ Quân là Kình Thương ra ngoài săn bắn, ưng ý cửu sư huynh Lệnh Vũ bèn trói lại đem về cung Đại Tử Minh, định lập làm nam hậu. Vì khi đó ta ở cùng với Lệnh Vũ nên cũng nhân tiện bị trói đi.
Khi ta năm vạn tuổi đã bái Mặc Uyên học nghệ. Mặc Uyên không thu nhận nữ đệ tử, mẹ ta phải dùng pháp thuật biến ta thành đàn ông, và lấy bừa một cái tên là Tư Âm (11).
Khi đó, ai ai cũng biết Mặc Uyên có đồ đệ thứ mười bảy là Tư Âm, là một vị thần quân dùng một chiếc quạt lụa làm pháp khí, là tiểu đồ đệ được thượng thần Mặc Uyên yêu quý nhất. Tuyệt đối chẳng có ai dám nghi ngờ Tư Âm này vốn là một nữ thần quân.
Ta và Lệnh Vũ tuy cùng bị bắt trói, nhưng vì ta chỉ là tiện thể bị bắt nên tự nhiên cũng được thả lỏng một chút. Vì thế ngoài cơm ba bữa ra, còn được đi lại xung quanh, chỉ cần không ra khỏi cung Đại Tử Minh là được.
Sau này mỗi khi ta nhớ lại, bữa cơm trưa vào ngày thứ ba ở cung Đại Tử Minh lúc đó, có lẽ là mình không nên ăn bát thịt kho đó. Nếu như ta không ăn bát thịt kho đó thì ngày nay bốn bể tám cõi chắc gì đã có chuyện này.
Khi đó, vốn ta đã dùng xong bữa trưa, nhà bếp lại mang lên một bát thịt kho định mệnh đó, nói là buổi sáng Kình Thương săn được một con lợn rừng, cắt ra một cái chân giò lớn, nấu lấy hai bát, một bát đưa sang bên Lệnh Vũ, một bát thì nhân thể ban cho ta. Ta nhìn thấy bát thịt mềm thơm, màu sắc bắt mắt, bèn khách sáo ăn hết cả bát.
Nên biết rằng trước đó ta đã ăn hết bữa trưa, bát thịt kho này coi như là bữa phụ. Cho nên sau khi ăn theo lệ là đi dạo, bèn không thể thiếu đi bộ nhiều hơn bình thường hai bước. Chính là hai bước đi thêm này đã khiến ta lần đầu gặp hoàng tử Ly Kính, tự nhiên thay đổi vận mệnh của bản thân.
Có câu “Đê dài ngàn dặm, sụt ở tổ mối”, cũng có câu “Vụ huyết án có nguồn cơn từ một cái bánh bao”, cho nên một bát thịt kho đã đưa đường đời ta đến chỗ gồ ghề mấp mô không gì bì được, cũng như đó chẳng phải là chuyện hoang đường. Nay nếu quay đầu nhìn lại, bản thượng thần khó tránh khỏi thở dài cảm khái một tiếng, đau lòng vô hạn.
Ta vẫn nhớ ngày hôm đó trời trong xanh lộng gió, vầng thái dương chiếu sáng xa xa, xuyên qua làn mây mù màu trắng xám bao vây, cung Đại Tử Minh giống như một quả trứng bồ câu treo lơ lửng giữa bầu trời.
Một cung nga bầu bạn nói với ta rằng, trong ngự hoa viên có một cây sen Hàn Nguyệt rất hiếm có, bây giờ đương lúc nở hoa, thần quân nếu như vẫn cảm thấy chướng bụng khó tiêu thì có thể đi qua đó xem xem.
Rồi lại chỉ đường cho ta. Ta phe phẩy chiếc quạt lụa suốt dọc đường đi, oanh yến ríu rít, hoa thắm liễu xanh. Vì khả năng nhận biết đường đi rất kém, hồi lâu ta vẫn chưa tìm thấy đóa sen hiếm có đó. May mà trong ngự hoa viên này tuy là nước nông núi giả, nhưng để tâm thưởng ngoạn thì cũng khá thú vị.
Ta đang vui vẻ thì đột nhiên có một chàng thiếu niên từ đâu nhảy ra, vạt áo buông lơi, mái tóc thả xõa, ánh mắt mơ màng, trên vai còn dính vài cánh hoa. Tuy điệu bộ giống như vừa ngủ dậy nhưng chẳng giấu nổi phong thái khuynh quốc khuynh thành.
Ta đoán rằng có lẽ đây là một vị phu nhân của tên Quỷ Quân đoạn tụ kia, bèn gật đầu qua loa với hắn một cái. Hắn ngây ra, cũng không đáp lễ, thần trí hình như vẫn chưa tỉnh táo. Ta cũng không thèm so đo với kẻ còn ngái ngủ, thi lễ xong liền tiếp tục dạo quanh vườn. Lúc đi ngang qua hắn, hắn lại kéo tay áo của ta, thần sắc trịnh trọng mà nghi hoặc: “Màu sắc chiếc áo của ngươi rất kỳ lạ, nhưng nhìn cũng rất đẹp, may ở đâu đó?”.
Ta nhất thời không phản ứng lại được, mắt đờ ra nhìn hắn, không thốt nổi lên lời.
Chiếc áo này màu tím bạc, vì mấy ngày rồi toàn ngày mặc đêm giặt nên màu sắc cũng nhạt đi đôi chút so với khi mới khoác lên mình, nhưng vẫn có thể chấp nhận được, thực sự cũng đâu được coi là kỳ lạ gì. Trước khi Kình Thương trói ta và Lệnh Vũ lại cũng chưa từng chào hỏi qua, coi như là sự kiện đột ngột phát sinh, ta cũng không kịp chuẩn bị áo xống để mặc thay, vào cung Đại Tử Minh này, trước sau chỉ có mỗi một bộ này. Quần áo mà bọn họ chuẩn bị cho ta mặc không quen, nên đành phải chăm giặt giũ một chút.
Thiếu niên trước mặt xoay ta một vòng dò xét, thành khẩn nói: “Ta chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì có màu này, đang buồn bực vì chưa tìm được thứ gì thích hợp làm quà mừng chúc thọ phụ vương, đây đúng là một của hiếm. Tiểu huynh đệ coi như vị nể nhân tình, đổi cho ta bộ này nhé”. Nói xong bèn tóm lấy ta, làn da trắng tựa tuyết thoáng ửng hồng, vừa ngại ngùng vừa nhanh nhẹn lột áo của ta ra.
Tuy đã hóa thành hình dáng của đàn ông nhưng rốt cuộc thì ta vẫn là một nữ thần trong trắng thơ ngây. Gặp phải chuyện này, theo như truyền thống, nếu bất lực thì cũng phải phản kháng một phen.
Lúc đó, hai người chúng ta đang đứng bên cạnh đầm sen, gió lành đưa tới mùi hương hoa thơm ngát khiến người ta cảm thấy thư thái.
Lúc giằng co, tuy ta chưa dùng tới pháp thuật, chỉ dùng tay trần giằng qua kéo lại, đã đẩy cả hai người cùng tơi xuống đầm sen. Tai của quỷ tộc rất thính, vừa nghe thấy tiếng rơi tõm xuống nước bao người đã tới xem vui. Chuyện này quả thực mất mặt, hắn giơ tay ra hiệu với ta, ta ngầm đoán ý hắn là đừng có lên trên, bèn gật gật đầu, cùng hắn dựa lưng quỳ dưới nước.
Bọn ta buồn bực quỳ rồi lại quỳ, quỳ đến tận khi trời tối. Đoán chừng trên mặt nước đã chẳng còn ai, mới khụ khụ bò lên trên bờ.
Bởi vì duyên cớ cùng quỳ nửa ngày dưới nước, bọn ta bèn bỏ qua tị hiềm trước đây gọi nhau là huynh đệ, trao đổi danh thiếp với nhau.
Thiếu niên diễm lệ này thực sự có quan hệ với Quỷ Quân đoạn tụ đó, nhưng không phải là phu nhân của hắn, mà là người con thứ hai do hắn sinh ra, chính là Ly Kính.
Còn nhớ năm đó, ta ngạc nhiên ú ớ, hóa ra thân là một kẻ đoạn tụ, hắn cũng có thể có con trai.
Từ đó về sau, Ly Kính ngày ngày tới mời ta thưởng trà, chọi gà, uống rượu.
Ta lại chẳng có tinh thần. Vì theo thông tin mới nhận được, rằng Kình Thương cưỡng ép, rằng đã định tổ chức hôn lễ vào ngày mùng ba tháng sau, Lệnh Vũ dù chết cũng không chịu, đã ba lần đâm đầu vào cột bị cứu sống, bây giờ lại bắt đầu tuyệt thực.
Khi đó ta thân cô sức yếu, đừng nói là cứu Lệnh Vũ cùng chạy trốn khỏi cung Đại Tử Minh, chỉ một mình ta muốn trốn đi đã khó lắm rồi. Vì tin rằng sau khi Mặc Uyên khai quan sẽ đến cứu chúng ta, những ngày ta ở nơi này cũng không đến nỗi quá khó chịu. Cứ nghĩ Kình Thương một lòng yêu thương Lệnh Vũ thì tình cảnh của Lệnh Vũ cũng không đến nỗi đáng ngại lắm, nào ngờ đâu huynh ấy lại đày đọa bản thân khiến người khác phải phiền lòng.
Ta ngày cũng phiền mà đêm cũng phiền.
Ly Kính thấy thế thì không nhẫn nại được, tức giận chạy đến, nâng chén kính rượu rồi tợp một ngụm, nói: “Chuyện nhỏ như vậy, đệ lại thà chịu ngày ngày dáng vẻ buồn bực cũng không chịu nhờ huynh giúp đỡ, rõ ràng không coi huynh là huynh đệ, lại còn phải để huynh chạy đến hỏi đệ. Đệ không nhận ta là ca ca, còn ta cứ nhận đệ là đệ đệ. Ta đảm bảo trước ngày mùng ba tháng hai sẽ giúp đệ đưa hắn ta ra khỏi cung là được. Đệ nói gì với hắn ta, cũng nên viết cho kỹ, tối nay ta sẽ giúp đệ mang qua cho hắn ta yên lòng. Nghe nói ngày hôm qua hắn ta gieo mình xuống hồ một lần. Ta thực sự không hiểu nổi, thần tiên bây giờ yếu đuối như thế, nhảy xuống hồ cũng có thể chết đuối. Cũng lạ là phụ vương ta lại có thể coi đó là một chuyện lớn”.
Ta chẳng thể nói gì. Không muốn vì chuyện này mà làm phiền đến hắn ta, cũng vì nghĩ hắn ta và Kình Thương chung quy thì vẫn là cha con, mang thêm phiền toái cho hắn thì sẽ không hay. Hắn lại khăng khăng muốn giúp đỡ ta, ta chỉ còn cách nhận lấy mà thôi.
Vì thế ta lại nợ hắn một mối nhân tình, sau này cùng Ly Kính uống rượu, ta không khỏi càng dốc sức hơn nữa. Vốn ta sợ nhất là cùng người khác chơi nhã lệnh (12) khi uống rượu. Thuở thiếu thời, do quá ham chơi, suốt ngày chỉ cùng mấy vị sư huynh hồ đồ chơi mấy trò như chọi gà, đua chó, chơi bời chốn đô thị, làm mấy trò phong lưu, thi văn âm luật đại khái đều không am hiểu, mỗi khi chơi trò nhã lệnh, ta đều là kẻ bị phạt nhiều nhất trong cả bàn. Còn trò thông lệnh mới là trò ta giỏi nhất, cho dù là đổ xúc xắc hay rút thăm hoặc oẳn tù tì ta đều dễ dàng xứng danh là đệ nhất sư môn.
Lần này ta lại phải lấy lòng Ly Kính, cho nên chơi nhã lệnh hết sức vui vẻ, cho dù mở mồm nói lung tung cúi đầu uống rượu cũng được, chơi thông lệnh thì lại phải vò tai chống cằm. Ly Kính đương nhiên là rất vui.
Lên kế hoạch chu đáo tỉ mỉ, quyết định trong đêm mùng hai sẽ lén đưa Lệnh Vũ ra khỏi cung.
Như thế, quan hệ của hai người chúng ta luôn là một ngày ngàn dặm, mười ngày ngắn ngủi, đã vượt một vạn dặm, đến tới cảnh giới bàn luận chuyện hôn nhân.
Nhưng không phải là ta bàn chuyện hôn nhân với hắn, mà là muội muội của hắn – Yên Chi, chẳng hiểu vì sao lại “ngắm” ta.
Ta đã từng gặp muội muội Yên Chi này của Ly Kính một lần, ngoại hình không giống với hắn, đại để là giống mẫu thân, nhưng cũng là một giai nhân thanh tú.
Hắn vô cùng vui vẻ, chỉ nói rằng đã thân lại càng thêm thân, tuy rằng ta và hắn vốn đâu có thân gì nhau. Nhưng trong lòng ta thực sự buồn khổ. Nếu như ta sinh ra đã là đàn ông thì chẳng có gì phải phàn nàn cả, đây sẽ là chuyện tốt, nhưng rõ ràng lúc sinh ra ta chẳng phải là một con hồ ly đực. Ta nói với Ly Kính rằng ta là một kẻ thô lỗ, làm sao xứng với công chúa Yên Chi, hắn lại tưởng rằng ta xấu hổ, chỉ mỉm cười không bận tâm. Lòng ta buồn bực khổ sở biết bao.
Trong cung Đại Tử Minh, Lệnh Vũ đang khổ sở chống đỡ ở góc phía đông, ta cũng ở góc phía tây khổ sở chống đỡ, cũng coi như là cân bằng với nhau.
Một đêm nằm mơ, ta mơ thấy Lệnh Vũ thực sự gả cho gã Quỷ Quân đoạn tụ đó làm vương hậu, còn ta thực sự lấy Yên Chi. Ly Kính nhiệt tình, thân thiết kéo ta lại, chỉ vào Lệnh Vũ mà nói: “Âm đệ, mau gọi một tiếng mẫu hậu đi”. Lệnh Vũ lại kéo tay ta đặt lên bụng huynh ấy, trên đỉnh đầu tỏa vầng hào quang, nói với ta một cách cực kỳ hiền từ: “Sau mấy tháng nữa, mẫu hậu sẽ hạ sinh cho các con một tiểu đệ đệ, A Âm, con có thích hay không?”. Ta cứng đờ mặt, cười khan, đáp: “Thích ạ”.
Đến khi tỉnh lại, lớp áo lót đã ướt đẫm mồ hôi lạnh. Muốn xuống giường uống ngụm nước mát cho tỉnh táo, rẽ màn ra, lại nhìn thấy Ly Kính toàn thân mặc áo bào trắng, lặng lẽ đứng ở đầu giường, ánh mắt nhìn ta sáng lấp lánh.
Từ trên giường ta ngã lăn xuống đất.
Lúc đó đã là canh ba, ngoài cửa ánh trăng tuy chẳng đẹp chút nào nhưng cũng đủ chiếu sáng gian phòng nhỏ này.
Ta bò trên đất nghĩ, không có gì lạ, không có gì lạ, hắn ta có lẽ là mất ngủ, đến tìm ta giải khuây mà thôi.
Nhưng quả nhiên thấy hắn ta quỳ xuống, trầm ngâm hồi lâu mới lên tiếng: “A Âm, ta nói với đệ một bí mật, đệ có muốn nghe không?”.
Ta đắn đo, lúc này hắn ta vẫn chưa ngủ, lại chạy đến chỗ ta để nói với ta một bí mật, rõ ràng là rất đau khổ. Nếu như ta không nghe, thực sự không đáng làm huynh đệ của hắn, bèn ngậm ngùi gật đầu một cái.
Hắn thẹn thùng nói: “A Âm, ta thích đệ, muốn ngủ cùng đệ”.
Ta vừa lồm cồm bò dậy ngay lập tức đầu lại cắm xuống đất. Theo những gì ta biết, Ly Kính vì chán ghét hành vi đoạn tụ của cha hắn, những chuyện trăng hoa của hắn hết sức bình thường, trong tẩm điện có hàng tá mỹ nhân, người nào người ấy đều ngực nở eo thon chân dài. Lúc đó ta hóa thành đàn ông, nhưng mặt mũi vẫn không hề biến đổi, chỉ có phần ngực là phẳng lỳ. Nghe những lời này của hắn ta, đương nhiên là choáng váng hết sức.
Hắn tự cho rằng mình đã cởi lòng cởi dạ, coi như đã thỏa thuận xong với ta, bèn bước tới cởi xiêm y của ta. Ta sống chết túm lấy vạt áo phía trước, hắn giận dữ nói: “Đệ đã im lặng đồng ý, sao lại ngại ngùng làm gì?”.
Nên biết rằng bản thần quân khi đó chỉ không nói gì, chứ tuyệt đối không phải im lặng đồng ý, mà là choáng váng đó thôi.
Hắn giằng lấy xiêm y như lần đầu tiên gặp mặt, cũng chưa tới mười ngày lại giằng thêm một lần nữa. Tượng đất còn có tự trọng, huống đó lúc đó ta lớn nhỏ gì cũng đã có tiên vị, được phong làm thần quân.
Thực sự là không thể nhẫn nhịn hơn được nữa, một đao chém ra, làm hắn ngã lăn ra đất. Nào hay lực đánh ra quá mạnh, lại vừa hay chém trúng huyệt Thiên Trụ sau gáy, cơ duyên trùng hợp, hắn liền ngất đi, nằm nặng trịch trên bụng ta, từ đầu tới chân toàn hơi rượu.
Như thế, ta ngẫm nghĩ xem những hành vi vừa nãy của hắn đều là do say rượu làm càn, cho nên cũng không so đo tính toán gì nhiều nữa. Lại nghĩ hắn nằm trên đất sẽ bị lạnh, bèn ôm lấy chiếc chăn trên giường, “gói” bừa hắn lại, cuộn lại rồi đẩy hắn vào xó giường, còn mình thì trèo lên giường đi ngủ.
Sáng sớm hôm sau, vừa mở mắt ra ta đã nhìn thấy hắn đang bó mình trong cái chăn hôm qua một cách rất đáng thương, cúi mình bên cạnh mép giường của ta, vừa nhăn mày vừa xoa xoa má: “Sao huynh lại ngủ ở chỗ đệ?”.
Trống ngực ta đánh mấy hồi, ta chậm rãi nói: “Đêm qua huynh uống say quá, canh ba chạy đến phòng đệ, nói thích đệ, đòi ngủ cùng đệ nữa”.
Cánh tay đang gãi gãi lên mái tóc của hắn cứng đờ giữa khoảng không, sắc mặt lúc xanh lúc trắng, chiếc áo nhàu nát như cái tổ chim, giống như đánh một quả trứng gà trong bát canh. Mãi lâu sau, hắn mới lắp bắp nói: “Huynh, huynh không phải là đoạn tụ. Nếu, nếu huynh là người như thế, sao, sao có thể nói là sẽ gả muội muội cho đệ?”.
Ta khẽ túm vạt áo, vui vẻ nói: “Quả thực huynh không phải là đoạn tụ”
Nhưng chẳng ngờ động tác túm vạt áo này lại kích thích mạnh hắn.
Hắn giơ tay phải lên run run chỉ vào ta: “Đệ, đệ… như thế… rõ ràng, rõ ràng là sợ ta quấy rối đệ”.
Ta đờ người ra, nói mập mờ: “Quả thực đêm qua huynh cũng suýt chút nữa lột áo của đệ ra”.
Mấy ngày liền sau đó không gặp Ly Kính. Trước đó hầu như ngày nào hắn cũng đến quấy nhiễu ta, lần này lại mất tăm mất tích.
Thành thật mà nói, con người Ly Kính tuy có ồn ào một chút, nhưng rượu mà hắn đem đến lại rất ngon, lúc cùng hắn chọi gà, chọi dế cũng rất vui vẻ. Vì thế, mấy ngày không gặp ta rất nhớ hắn.
Công chúa Yên Chi mời ta cùng dạo chơi hậu hoa viên, vô tình có nhắc đến vị ca ca này của nàng ta, lúc đó ta mới biết mấy ngày nay đêm nào cũng hỏi hoa tìm liễu, vô cùng phóng đãng phong lưu.
Yên Chi tỉ mỉ dịu dàng, lo lắng hỏi ta: “Có phải thần quân và nhị ca ca xảy ra hiềm khích gì không? Trước đây hai người như chân với tay, ngày ngày bên nhau như hình với bóng cơ mà”.
Ta đưa tay lên sờ phía sau gáy, nghĩ lại một hồi, cho rằng ngoài việc đêm đó hắn say rượu giở trò càn quấy với ta bất thành ra, thì ta với hắn luôn luôn hòa thuận. Thêm vào đó, anh em như quần áo, thê thiếp như tay chân, hắn và tay chân của hắn làm chuyện đại sự lo người hương hỏa, có thêm quần áo quả thực quá thừa thãi. Chuyện phong tình trang nhã như ôm mỹ nhân trong lòng, mà bên cạnh lại có một tên đàn ông đứng cạnh nhìn chằm chằm vào mỹ nhân của hắn thì phong tình trang nhã cũng hơi quá. Đương nhiên ta không phải đàn ông, vì thế tuyệt đối không thèm nhìn trộm mỹ nhân trong lòng hắn, hắn cũng không biết rằng chắc chắn phải phòng bị một phen. Làm đàn ông không dễ, làm một người đàn ông có nhiều vợ lại càng không dễ, nghĩ tới đây, ta rất cảm thông với hắn.
Yên Chi nhìn ta chằm chằm muốn hỏi đến tận cùng. Ta đắn đo trong lòng một hồi, cảm thấy nói cho nàng ta nghe e sẽ không hay. Bối rối hồi lâu bèn tìm đại một lý do để lấp liếm cho qua.
Chẳng mấy chốc đã là mùng hai tháng hai.
Cung Đại Tử Minh đèn hoa rực rỡ, phần ăn của ta cũng được cải thiện không ít.
Sau khi nhận được phong thư của ta, vì được an ủi nên Lệnh Vũ cũng miễn cưỡng được coi là sống yên ổn. Đưa huynh ấy trốn khỏi cung lại là chuyện cực kỳ cơ mật, ngay cả trong thư ta cũng chưa từng nhắc đến. Cho nên ngày hôn lễ đến gần, huynh ấy khó tránh khỏi lo lắng, trong giờ Thìn buổi trưa huynh ấy đã làm liền một lúc nào là cắn lưỡi, uống thuốc độc, treo cổ, làm đi làm lại mấy lần liền.
Ta cũng đi đi lại lại trong nhà hơn mười vòng, xem chừng vẫn nên đi đến tẩm điện, thương lượng qua với Ly Kính xem xem có thể tiến hành kế hoạch trước một ngày hay không.
Đến trước tẩm điện của Ly Kính thì bị hai cung nga chặn lại, nói nhị hoàng tử đã cùng hai vị phu nhân đi săn bắn bên ngoài, không có trong cung. Ta đắn đo một hồi rồi đành để lại lời nhắn cho cung nga, đợi khi nhị hoàng tử trở về cung nhờ hai người họ thông báo một tiếng, nói là Tư Âm Thần Quân có món đồ chơi mới rất hay, muốn chơi cùng ngài.
Ta ngồi lỳ trong phòng cắn hạt dưa rất lâu, chưa đợi được Ly Kính nhưng lại đợi được sư phụ của ta – Mặc Uyên.
Dưới nách của Mặc Uyên có một bọc chăn, trong đó quấn kín một bóng người, dường như chính là vị cửu sư huynh tự sát bất thành – Lệnh Vũ của ta.
Một miếng vỏ hạt dưa mắc trong họng ta, làm ta ngạt thở đến mức mặt mày tím tái. Sư phụ nhíu mày nhìn ta dò xét một lượt, rồi đi tới vỗ vỗ ngực cho ta.
Ta nhổ ra được mảnh hạt dưa, nghĩ tới việc cuối cùng ngày hôm nay có thể trốn khỏi nơi này, không còn phải sợ hãi lo lắng cho sư huynh Lệnh Vũ nữa thì không khỏi cảm thấy vui mừng.
Sư phụ đặt Lệnh Vũ xuống rồi ôm ta một cái, ôm chặt hồi lâu mới thả ra, lãnh đạm nói: “Không sai, Lệnh Vũ gầy đi một chút, Tiểu Thập Thất lại béo lên một chút, coi như là chúng ta không bị thiệt thòi”.
Ta nở nụ cười nịnh bợ, bưng hạt dưa đưa đến trước mặt người: “Sư phụ, người ăn hạt dưa đi ạ”.
Cuộc chạy trốn đêm đó của chúng ta không hề thuận lợi.
Kình Thương tóm được ta và Lệnh Vũ, đương nhiên hắn ta cực kỳ yêu mến Lệnh Vũ nhưng Lệnh Vũ lại không chịu theo hắn, ấy chính là cưỡng ép. Mặc Uyên nể tình hữu nghị giữa Thần tộc và Quỷ tộc nên chẳng gây chuyện binh đao, chỉ âm thầm đột nhập cung Đại Tử Minh để cướp ta và Lệnh Vũ đi, coi như là đã giữ thể diện cho hắn ta. Hắn ta lại không biết phải trái điều động binh tướng chặn kín ở cửa cung, đòi bắt chúng ta, chẳng trách Mặc Uyên không nhẫn nhịn được nữa, đại khai sát giới.
Lệnh Vũ vì hôn mê suốt nên không trông thấy cảnh tượng đó. Ta nhìn cảnh máu chảy đầu rơi trước mặt mà lòng run sợ.
Mặc Uyên xưa nay bất bại, lúc ôm ta và Lệnh Vũ nhảy ra khỏi cửa cung, ta còn quay đầu lại nhìn, chỉ nhìn thấy Kình Thương cầm chiếc Phương Thiên họa kích, đứng ở giữa đống máu tanh màu đỏ sậm, đôi mắt như muốn rách toác ra.
Ta vẫn chưa nhìn thấy Ly Kính đâu.
Mặc Uyên ôm ta và Lệnh Vũ từ cung Đại Tử Minh chạy về gò Côn Luân, Lệnh Vũ vẫn hôn mê, vẫn im lìm như thế.
Ta mãi mãi không thể nào quên được đêm hôm đó, nhưng suốt đời này cũng không muốn nhớ lại.
Sau khi chạy về gò Côn Luân, Mặc Uyên giao Lệnh Vũ cho tứ sư huynh chăm sóc, còn mình vội vã dẫn ta đến phòng đan dược, giơ tay điểm huyệt ngủ của ta, rồi nhốt ta trong lò luyện đan của người.
Lúc ta mới tỉnh lại vẫn còn nghĩ tất là sự trừng phạt của Mặc Uyên, cảnh cáo ta đã không chăm sóc Lệnh Vũ tử tế, hại huynh ấy bị thương hơn nửa tháng, gầy đi mất một chút.
Bỗng nghe sấm long sét nổ.
Lúc đó mới ý thức được rằng, e rằng đây là thiên kiếp của ta. Mặc Uyên sắp xếp cho ta ở nơi đây là vì muốn ta tránh được thiên kiếp.
Tuy rằng ta sinh ra từ tiên thai, nhưng nếu muốn có chút tiền đồ, thì cũng phải dựa vào bản thân. Từ một thần tiên bình thường mà thăng lên làm thượng tiên, từ một thượng tiên được thăng lên thượng thần, ít nhất cũng mất bảy vạn năm, nhiều nhất thì cũng phải mười bốn vạn năm, phải trải qua hai kiếp số. Kinh qua được thì thọ ngang trời đất, không qua được thì tuyệt mệnh tại đây.
Khi đó, ta đã theo Mặc Uyên hai vạn năm. Theo lý mà nói, suy diễn thiên kiếp của bản thân diễn ra vào lúc nào, nơi nào, dùng phương thức nào để giáng xuống, lại tổng duyệt trước một số cách vượt qua thiên kiếp xem có ổn hay không là đều có thể được. Nhưng vì ta xưa nay rất ghét thuật suy diễn, cảm thấy những ấn già (13) này cực kỳ vô vị, mỗi giờ dạy của Mặc Uyên ta đều tích cực ngủ gà ngủ gật, thế nên học đã bao lâu cũng chỉ có thể tính được số mệnh của người phàm trần. Cho dù như thế, mười lần thì cũng có năm, sáu lần tính sai.
Ta rất hiểu rằng mình đạo mỏng duyên nông, dùng tu vi như thế này để trải qua thiên kiếp như thế kia thì đúng là giống như mổ bụng gà mà đòi lấy ra trứng vịt, thực sự là không thể.
May mà bảy vạn năm qua ta rong chơi ngày tháng tiêu dao tự tại, nên khoảnh khắc hồn tiêu phách tán ta cũng không lấy làm hối tiếc điều gì. Cho nên đối với thiên kiếp này ta cũng chỉ coi là bình thường, chỉ hiểu sơ sơ là giáng vào năm này, còn ngoài ra thì ta mù tịt.
Ta chui trong lò luyện đan, đợi qua một lúc mới đột nhiên nhớ ra, ta đang trốn trong căn phòng này, vậy phải tìm ai để thay thế ta? Nên biết rằng sở dĩ thiên kiếp được gọi là thiên kiếp, đương nhiên không thể giống như kiếp số bình thường, một khi đã giáng xuống thì chắc chắn phải ứng vào thân người thì mới coi như đã xong chuyện.
Tiếng sấm sét đì đùng làm đầu óc ta trở nên trống rỗng, thi triển mọi bản lĩnh để khoan lò chui ra, nhưng trước sau đều không thể. Đây là lần đầu tiên trong đời ta ý thức được rằng suốt hai vạn năm cầu học kia, ta đã sống hết sức khốn nạn.
Ngày hôm sau, đại sư huynh đến mở nắp lò, hết sức chân tình nói: “Thập Thất, hôm qua sư phụ đứng bên cạnh lò đỡ cho đệ trọn ba cú sét đánh, sau này đệ nên chịu khó học hỏi chút bản lĩnh đi. Lần sau được thăng làm thượng thần mà lại để sư phụ giúp đệ vượt qua thiên kiếp e là không được đâu”.
Mặc Uyên giúp ta chịu thiên kiếp, trước khi ta từ trong lò bò ra ngoài, người đã bế quan trị thương rồi.
Ta quỳ trước động của người ba ngày, nước mắt nước mũi tèm nhem, thành khẩn nói: “Sư phụ, có phải người bị thương quá nặng không? Thương thế của người có trị được không? Đệ tử thực sự là đồ khốn nạn, đã làm liên lụy đến người. Xin người chớ để lại mầm bệnh, nếu như người có chuyện gì không hay xảy ra, đệ tử chỉ có cách đem hầm bản thân ra làm canh bổ cho người ăn thôi”.
Đời này chỉ có một lần ta khóc đến mức dữ dội và thương tâm như thế.
Chú thích:
11. Nguyên văn là chữ 司 音, chữ 司 khi dùng với nghĩa là chức quan chủ quan một nơi, đơn vị thì đọc là Ti, còn khi dùng làm tên người, chỉ người thì đọc là Tư (ND).
12. Trong văn hóa của Trung Hoa, tửu lệnh là một thú vui trợ hứng trong các buổi tiệc rượu, thông thường có một người được cử ra làm lệnh quan, những người còn lại thì lần lượt thay phiên nhau đọc thơ từ, câu đối hoặc các trò chơi tương tự khác, nếu người nào làm trái lệnh hoặc không làm thì sẽ bị phạt uống rượu, cho nên còn có câu “hành lệnh ẩm tửu” – làm theo lệnh uống rượu. Căn cứ theo người chơi là văn nhân tài tử hay người bình thường mà tửu lệnh chia làm hai loại lớn: Nhã lệnh và Thông lệnh. Nhã lệnh thường là có những trò đọc thơ ca, đối câu, nhắc điển cố điển tích như tứ thư lệnh, hoa kỹ lệnh, Thi lệnh, lệnh câu đố, lệnh đối chứ, lệnh điển cố, lệnh tên người… Còn Thông lệnh thường gồm các trò như đổ xúc xắc, rút thăm, oẳn tù tì (ND).
13. Ấn già: Những tư thế tay bắt ấn để làm phép (ND).
------------------------
Chương 6: Chuyện đã qua không nên quay đầu lại
Sau đó, ta rất cố gắng ngày ngày ở trong phòng tham khảo học hỏi các tiên thuật đạo pháp, lúc nhàn rỗi thì đọc thêm các điển tịch mà thần tiên đời trước để lại. Đại sư huynh rất thảnh thơi.
Học được phép thuật nào ta lại đến biểu diễn trước động của Mặc Uyên một lần. Người tuy rằng không biết nhưng ta lại cầu được yên lòng.
Một ngày nọ, khi ta đang ngồi dưới rừng đào phía sau núi để tọa thiền. Đại sư huynh sai một con hạc tiên tới thông báo, ta mau mau về tiền sảnh, có khách tới thăm.
Ta ngắt lấy một cành hoa đào. Cành hoa đào trong phòng Mặc Uyên đã có mấy dấu hoa tàn. Tuy gần đây người bế quan tu luyện, chưa từng ở trong phòng nhưng ta vẫn chăm chút cho nó, khi nào người xuất quan ở phòng đó cũng sẽ cảm thấy thoải mái dễ chịu.
Ta cầm cành hoa đào đi đến tiền sảnh.
Đi ngang qua đình trung, hai vị sư huynh Thập Tam, Thập Tứ đang ngồi dưới gốc táo đang cá cược xem vị khách kia là nam hay là nữ. Ta đoán là tứ ca Bạch Chân đến thăm hỏi, cho nên móc một viên dạ minh châu ra, cũng rụt rè tham gia đánh cược. Bước vào tiền sảnh lại chẳng ngờ, vị khách mà đại sư huynh nói đến lại chính là Ly Kính – nhị hoàng tử của Quỷ tộc đã lâu không gặp.
Lúc ấy, hắn nghiêm trang ngồi ngay trên chiếc ghế thái sư bằng gỗ lê, lim dim mắt uống trà. Nhìn thấy ta bước vào hắn thoáng ngây người.
Lấy máu Mặc Uyên để rửa cung Đại Tử Minh, ta suy diễn rất có logic, lần này Ly Kính đến đây chẳng phải hỏi tội lần trước sao? Hắn ta lại bước nhanh hai bước, rất nhiệt tình thân thiết ôm lấy hai tay ta: “A Âm, ta hiểu rồi, lần này ta sẽ cùng đệ ở cùng bay chung, gắn bó bên nhau”.
Cành hoa đào gãy “rắc” một tiếng rơi xuống đất.
Thập Tam sư huynh đứng ngoài cửa hét lên: “Trả tiền, trả tiền, là con gái đó”.
Ta rất hoang mang, ngẫm nghĩ hồi lâu, mới mở vạt áo cho hắn nhìn: “Đệ là đàn ông, huynh và các phu nhân ở tẩm điện của huynh ân ân ái ái, đâu phải là một kẻ đoạn tụ”.
Thực ra ta không phải là đàn ông, trái tim hồ ly to bằng bàn tay dưới lớp da thịt kia đâu có thô lỗ như bọn đàn ông, mà vẫn dịu dàng tinh tế như những cô gái bình thường. Nhưng vì ban đầu mẹ ta muốn đánh lừa Mặc Uyên, nên ta không tránh khỏi phải giữ hình dáng đàn ông này cho đến khi học thành tài, có thể thuận lợi ra khỏi sư môn.
Ly Kính nhìn chằm chằm vào bộ ngực bằng phẳng của ta, quẹt máu mũi nói: “Từ ngày huynh rời khỏi phòng của đệ, huynh đã suy nghĩ rất nhiều. Vì sợ rằng mình đúng là có tư tưởng kỳ quái như lời đệ nói, cho nên cả ngày quyến luyến hoa liễu, những mong, những mong sẽ dùng đàn bà để mê hoặc chính mình. Lúc đầu, lúc đầu cũng có chút hiệu quả, nhưng chẳng ngờ từ sau khi đệ ra đi, ta ngày nhớ đêm mong. A Âm”, hắn chẳng màng tới xung quanh mà tiến tới ôm chặt ta, chậm rãi nói: “Vì đệ, dù làm đoạn tụ một lần cũng đâu có gì đáng ngại?”.
Ta ngẩng lên nhìn gỗ hoa đào trên xà nhà, lại nghĩ kỹ một lượt, cảm thấy tình thế lúc này, sao mà khiến người ta kinh sợ đến vậy, sao mà khiến người ta ngậm ngùi biết bao.
Thập Tứ sư huynh cười ha ha: “Rốt cuộc là ai trả tiền cho ai?”.
Cho dù Ly Kính ngàn dặm xa xôi chạy tới Côn Luân để thổ lộ tâm tình với ta, nhưng đối với hắn, ta chằng hề có một chút tình cảm đoạn tụ nào, đành chỉ có thể khiến hắn thất vọng mà thôi.
Sắc trời dần tối, đường núi khó đi, ta giữ hắn ở lại trên núi một đêm. Đại sư huynh Nại Hà biết được có một kẻ đoạn tụ lên núi tìm ta, bèn tức giận đánh hắn, tống cổ ra khỏi cửa.
Ta vô cùng khâm phục sự can đảm của Ly Kính, bị đại sư huynh đánh một trận dã man như vậy cũng quyết không từ bỏ, cách dăm ba hôm lại sai vật cưỡi của hắn là Hỏa kỳ lân đem tới mấy bài thơ tình vừa đau thương vừa chua xót. Lúc đầu viết “Trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành”, dăm hôm sau lại “Tương tư muốn gặp nhau biết ngày nào, lúc này đêm nay khó vị tình”, vài hôm sau lại “Áo khăn dần lỏng cũng không hối hận, vì ai thương nhớ tấm thân hao gầy”.
Vì những trang giấy viết những bài thơ này rất dễ cháy, nên Thập Tam sư huynh vốn được phân công coi sóc chuyện bếp núc liền nhặt nhạnh từng trang từng trang, lấy làm mồi nhóm bếp. Ta cũng từng cố hết sức giữ gìn bảo vệ chúng, nhưng chỉ một câu của đại sư huynh Nại Hà: “Đệ suốt ngày ở trên núi không sản xuất, chỉ biết ngồi không đợi ăn cơm, lần này khó khăn lắm mới có chút giấy bỏ đi để đóng góp, vậy mà còn nhỏ mọn như thế” làm cho ta “tắt họng” ngay lập tức. Khi đó ta vẫn còn nhỏ, tuy ngày ngày cùng ở với cánh đàn ông, may mắn là vẫn còn chút tình cảm của thiếu nữ. Tuy rằng chưa từng đáp lại Ly Kính lời nào, nhưng hắn vẫn vô cùng nhẫn nại, ngày ngày sai Hỏa kỳ lân mang thư tới. Ta cũng hơi rung động vì hắn.
Một ngày kia, Hỏa kỳ lân đem tới hai câu thơ, rằng “Thiên trường địa cửu hữu thời tân, Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ” (Thiên trường địa cửu còn có lúc hết, Nhưng mối hận này đằng đẵng không bao giờ nguôi). Ta kinh sợ, tưởng rằng đó là di thư, hắn có vẻ giống như một người nghĩ quẩn, bèn tiện đường ngồi lên lưng Hỏa kỳ lân, âm thầm đi tới cung Đại Tử Minh để khuyên nhủ hắn. Hỏa kỳ lân lại đưa ta tới thẳng động phủ ở dưới chân núi.
Đó là một cái động tự nhiên, sau đó được thu dọn, sửa sang, Ly Kính đang nằm nghiêng trên chiếc sập bằng đá. Ta không biết hắn đã chết hay còn sống, chỉ cảm thấy trời như đã sụp xuống một nửa, bèn nhảy xuống khỏi Hỏa kỳ lân mà chạy tới lay hắn. Lay, lay, rồi lại lay, trước sau hắn vẫn không hề tỉnh lại. Ta không biết làm thế nào, đành phải lấy pháp khí ra, sấm rền chớp giật gió điên cuồng thổi qua, thử hết cách này tới cách khác, nhưng hắn vẫn không tỉnh. Hỏa kỳ lân thấy không ổn bèn nhắc ta: “Pháp khí này đánh bên người chỉ là gây tê, thượng tiên không ngại thì hãy kích thích vào tâm can mềm yếu của điện hạ, có lẽ điện hạ sẽ tỉnh lại”.
Cho nên ta liền nói câu nói đó.
“Huynh mau tỉnh đi mà, đệ nhận lời huynh là được chứ gì”.
Hắn quả nhiên mở choàng mắt, tuy rằng bị chiếc quạt lụa của ta đập cho tơi tả nhưng hắn vẫn cười, nói: “A Âm, nhận lời huynh rồi thì đệ không được hối hận đấy, đỡ huynh dậy nào, huynh bị pháp khí của đệ đánh cho xương cốt rụng rời rồi”.
Lúc đó ta mới biết đây chỉ là mưu kế.
Sau này đại ca mới nói cho ta hay, mưu kế trong chuyện gió trăng không được coi là mưu kế, chỉ là hứng thú mà thôi; còn hứng thú trong chuyện gió trăng cũng không được coi là hứng thú, chỉ là mưu kế mà thôi. Sau khi trải qua vết thương lòng, ta thấy nó cực kỳ có lý. Nhưng lúc đó thì vẫn chưa ngộ được chân lý.
Ly Kính đã đuổi hết những vị phu nhân trong tẩm điện của hắn, còn ta thì ở chung với hắn. Đương khi tháng tư giữa chốn nhân gian, hoa đào trên núi bắt đầu nở rộ. Ly Kính vì đã thành công nên không gửi những bài thơ sướt mướt đến nữa. Đại sư huynh cho rằng hắn đã không thể kiên nhẫn được nữa nên vô cùng vui vẻ, các bài luyện tập tu tiên của chúng ta cũng nhờ phúc ấy mà được giảm đi không ít, vì thế mọi người vừa tiêu dao lại vừa sung sướng.
Khi ấy, trong lòng Ly Kính vẫn có chút dè chừng với đại sư huynh, nên tuy rằng ở dưới chân núi nhưng cũng không lên núi nữa. Thế nên, mỗi ngày sau khi ta kết thúc bài luyện tập, đến trước động của Mặc Uyên báo cáo xong, liền thu dọn đồ đạc để xuống núi hẹn hò với hắn, ngày tháng trôi qua mệt mỏi muốn chết đi được.
Ly Kính quả không hổ là kẻ quen đường tìm hoa hỏi liễu, khiến người ta vui vẻ. Giờ đây vẫn còn nhớ, hắn từng tặng cho ta rất nhiều đồ chơi tinh xảo. Những thứ như dế tết bằng cỏ, sáo ngắn bằng trúc xanh, thứ nào cũng toàn tâm toàn ý làm thành, thực khiến người ta yêu thích. Cố nhiên có điều là không đáng mấy tiền, khiến người ta không khỏi tiếc nuối.
Có một lần hắn còn tặng ta một dây hoa dưa chuột. Lúc ở cung Đại Tử Minh, công chúa Yên Chi từng kể với ta rằng, vị ca ca này của nàng ta từ lúc nhỏ đã mắc một tật nhỏ, đó là không phân biệt được màu vàng hay màu tím. Hắn ta nhìn màu vàng hay màu tím đều giống như nhau, mà màu sắc này lại là một màu sắc kỳ dị mà người thường không thể nào lý giải nổi. Như thế, khi tặng ta hoa dưa chuột, chắc hẳn hắn coi đó là một loài hoa tuyệt thế. Ta cũng không thèm so đo với hắn, hoa dưa chuột tốt xấu gì cũng là một loài hoa. Cho nên ta ép khô nó lại, rồi kẹp vào trong một cuốn sách về đạo pháp, trân trọng cất đi.
Sau khi ta mắc phải vết thương lòng thì không còn muốn nhớ lại quãng thời gian ta và Ly Kính tâm hợp ý đầu với nhau năm đó nữa. Rõ ràng đã qua nhiều năm như thế, những tình tiết của quãng thời gian này ta cũng không còn nhớ rõ nữa.
Vậy thì hãy tiếp tục từ đoạn Huyền Nữ ra sân khấu đi.
Huyền Nữ là một muội muội nhỏ nhất của nhà đại tẩu Vị Thư ta. Khi đại tẩu được gả vào nhà ta, tẩu ấy vẫn là một đứa trẻ còn quấn trong tã lót. Vì cái năm đại tẩu xuất giá, nhà mẹ đẻ xảy ra một số chuyện, Huyền Nữ từ nhỏ đã được đại ca đại tẩu ta nuôi dạy, thường xuyên cùng chơi, cùng ở với ta. Huyền Nữ rất thích tướng mạo của ta, lúc còn nhỏ, cả ngày thường lèo nhèo bên tai ta rằng, muốn có được khuôn mặt giống ta như đúc. Ta bị nàng ta lèo nhèo suốt mấy trăm năm, thực là quá khổ sở, vì biết rằng Chiết Nhan có bản lĩnh dịch dung thay đổi khuôn mặt, có một năm nhân dịp sinh nhật nàng ta, ta bèn đặc biệt tới rừng đào mười dặm để vời Chiết Nhan, xin người làm phép thuật, biến nàng ta giống ta tới bảy, tám phần. Huyền Nữ được toại nguyện nên cực kỳ vui vẻ. Ta được thanh tịnh nên cũng vui vẻ vô cùng. Như thế mọi người đều vui vẻ.
Nhưng chẳng bao lâu sau thì phát hiện chuyện không hay. Không phải là phép thuật của Chiết Nhan chẳng ra gì mà là ở chỗ ta suốt ngày phải nhìn gương mặt gần giống hệt mình lượn qua lượn lại trước mắt, khó tránh khỏi choáng váng đau đầu, thế nên ta dần dần tránh xa Huyền Nữ, ngày ngày chơi bời cùng tứ ca.
Sau khi Huyền Nữ lớn lên, thành một cô nương, bèn quay về chỗ cha mẹ nàng ta. Ta và nàng ấy từ đó chẳng còn qua lại chi nữa.
Khi ta với Ly Kính đang bên nhau nồng thắm thì đại tẩu gửi thư đến nói rằng, mẹ của đại tẩu đang ép gả Huyền Nữ cho một tên mù, Huyền Nữ liền chạy một mạch đến động phủ của đại ca và đại tẩu. Nhưng động phủ của họ cũng không hẳn là an toàn, mẹ của đại tẩu trước sau gì cũng tìm đến. Cho nên tẩu ấy và đại ca ta bàn bạc với nhau tạm thời gửi Huyền Nữ tới chỗ của ta để lánh nạn.
Nhận được thư của đại tẩu, ta liền thu dọn phòng của mình một lượt, lại gửi cho đại sư huynh một lá thư, cho huynh ấy hay rằng có một tiên hữu sắp đến Côn Luân làm phiền mấy ngày. Gần đây tâm tình đại sư huynh rất vui vẻ, nghe nói vị tiên hữu này là nữ thì tâm tình càng vui vẻ hơn, rất mau mắn nhận lời.
Ba ngày sau, Huyền Nữ yểu điệu cưỡi một đám mây xám tiến vào gò Côn Luân.
Khi nàng ta nhìn thấy ta thì lặng đi trong giây lát.
Trong thư đại tẩu chưa nói cho Huyền Nữ biết rằng ta chính là Bạch Thiển, bạn chơi thuở thiếu thời của nàng ta, mà chỉ nói ta là một tiên hữu chơi với họ mà thôi.
Huyền Nữ ở lại gò Côn Luân. Dung mạo của nàng ta thực sự có đến chín phần giống ta. Đại sư huynh nhận xét rằng: “Nói nàng ta không phải là muội muội của đệ ta quả thực không tin được, hai người bọn đệ đứng cạnh nhau, chỉ khác có mỗi dáng vẻ yểu điệu”. Khi đó ta đương lúc gió xuân đắc ý, tự cho rằng mình không có dáng vẻ sầu thu thương xuân, luyến hoa tiếc nguyệt, quả thực có chút không có dáng vẻ yểu điệu.
Ta thấy Huyền Nữ cả ngày u uất sầu bi, khuôn mặt võ vàng, vốn có ý quan tâm thăm hỏi như chốn thân thích, lần sau xuống núi tìm Ly Kính liền dẫn nàng ta đi theo.
Lúc Ly Kính mới gặp Huyền Nữ thì ngây ra hồi lâu, khó khăn mới lắm trấn tĩnh, lại thốt ra một câu cực kỳ ngây ngô: “Ở đâu ra một Tư Âm nữ thế này?”.
Huyền Nữ liền cười “phì” một tiếng.
Ta thấy nàng ta cuối cùng đã vui vẻ lại nên cũng rất sung sướng. Hôm sau đi tìm Ly Kính cũng dẫn nàng ta đi theo.
Một ngày, khi ta đương leo trên cây táo ở đình trung để hái táo, định bụng khi mặt trời xuống núi sẽ mang đến động của Ly Kính mời hắn thưởng thức.
Đại sư huynh ào đến như cơn gió, ngồi yên dưới gốc cây, cắn răng mà nói với ta: “Lần trước huynh đánh kẻ đoạn tụ đến tìm đệ, đệ còn trách huynh ra tay quá nặng, còn huynh lại hận mình sao ngày đó mình không đánh chết hắn ta đi, không cho hắn dẫn đệ đi, hắn lại dẫn Huyền Nữ đi…”.
Ta một mình chật vật tụt xuống khỏi cây táo, miễn cưỡng ngẩng đầu lên nói: “Đại sư huynh, vừa nãy huynh nói gì?”.
Huynh ấy ngẩn ra, vội vàng dìu ta: “Mau mau xuống núi, nhìn từ xa cũng thấy tên đoạn tụ đang nắm tay Huyền Nữ đi dạo, dáng vẻ chan chứa tình cảm”.
“Ớ?” Huynh ấy lại dìu ta nửa bước, sau đó lại dừng lại, sờ cằm, nói: “Huyền Nữ là một nữ thần tiên, kẻ đoạn tụ đó lại là một tên đoạn tụ rất chân thành, sao bọn họ lại có thể thành đôi được nhỉ?”.
Ta như có sét đánh ngang tai, vùng khỏi tay huynh ấy, chạy như bay xuống núi.
Hỏa kỳ lân đang ngủ gà ngủ gật bên ngoài động.
Ta bắt quyết biến thành một con ngài, loạng choạng vỗ cánh bay vào trong động.
Trên chiếc sập đá có hai bóng người đang quấn lấy nhau.
Người con gái nằm phía dưới có khuôn mặt giống hệt ta, đang thở hổn hển.
Người đàn ông ở trên đưa tay rẽ mái tóc dài đen bóng, dịu dàng gọi: “Huyền Nữ, Huyền Nữ”.
Nhất thời lòng ta lạnh buốt, không trụ nổi, gió thổi qua động thổi ta rớt xuống đất, hóa thành hình người. May mà vẫn đứng vững, không đến nỗi mất đi phong độ của gò Côn Luân.
Ly Kính và Huyền Nữ cùng lúc quay đầu lại, sự hoảng loạn ấy quả thực không nằm ngoài dự liệu.
Ta vẫn còn nhớ mình cực kỳ bình tĩnh bước tới, quạt cho Ly Kính một cái, lúc định quạt Huyền Nữ liền bị Ly Kính giữ tay lại. Huyền Nữ ôm chăn rúc trong lòng hắn ta, gương mặt Ly Kính lúc xanh lúc trắng.
Ta với hắn giằng co một lúc, cuối cùng hắn cũng buông tay ra, nghiêm giọng nói: “A Âm, huynh xin lỗi đệ, rốt cuộc huynh vẫn không phải là một kẻ đoạn tụ”.
Ta giận quá cả cười: “Đây quả là cái cớ rất thông dụng, có phải đoạn tụ hay không thì chỉ cần ngươi nói là xong, tốt lắm, tốt lắm. Bây giờ thì ngươi định làm thế nào với ta?”.
Hắn trầm ngâm một hồi, nói: “Lúc đầu là do ta mê muội”.
Huyền Nữ nước mắt vòng quanh, nghẹn ngào nói: “Thượng tiên Tư Âm, xin người tác thành cho chúng ta, ta và Ly Kính tâm đầu ý hợp, hai người đều là đàn ông, rốt cuộc, rốt cuộc vẫn không phải là hợp lẽ”.
Nhưng đời này bà đây ghét nhất bốn chữ “tâm đầu ý hợp”.
Ta nghiêm nét mặt, lạnh lùng cười nói: “Thế cái gì mới là hợp lẽ, mới đầu làm loạn sau cùng vứt bỏ mới là hợp lẽ sao? Dụ dỗ người khác, phá hoại nhân duyên của người ta thì mới là hợp lẽ sao?”.
Khuôn mặt nàng ta trắng bệch, không nói nổi câu nào.
Lòng ta tan nát, vung tay áo thả bọn họ ra rồi đi. Với Ly Kính, thực sự đã hết rồi.
Khi ấy còn trẻ, xử lý sự tình chưa có kinh nghiệm biện bạch với họ về đạo lý hồi lâu, lãng phí rất nhiều nước bọt. Ta không hiểu rằng việc nên làm là mau rút đao chém loạn xạ, một đao lấy mạng hai người họ, để mình vui vẻ mới là hợp lẽ.
Ta lần đầu nếm trải tình yêu, đã gặp phải biến cố lớn đương nhiên sẽ đau lòng vô cùng. Hễ nghĩ tới Ly Kính và Huyền Nữ se chỉ luồn kim bắc cầu Hỷ Thước, kẻ ngốc nghếch vẫn là ta, chỉ biết đau lòng. Một mặt đau lòng vì thất tình, một mặt đau lòng vì đã gây nên đầu mối oan gia.
Những món đồ chơi không đáng tiền mà Ly Kính đem đến cho ta trước đây, đều trở thành tâm bệnh giày vò ta. Ta trằn trọc mất ngủ, đem bọn chúng ra đốt sạch, nhưng cũng khó mà gỡ ra được, chỉ có cách uống rượu. Cho nên ta say mèm một trận ba ngày dưới hầm rượu của gò Côn Luân.
Tỉnh dậy đã thấy mình đang dựa trong lòng sư phụ.
Mặc Uyên dựa lưng vào một vò rượu lớn, tay phải đang cầm một hồ lô rượu, tay trái giữ ta.
Nhìn thấy ta tỉnh lại, người chỉ nhăn mày, nhẹ nhàng nói: “Uống nhiều rượu như vậy, phải khóc được mới tốt, u uất kết tới tận tim phổi thì thật uổng cho chỗ rượu ngon này của ta”.
Cuối cùng ta ôm lấy chân người mà khóc một trận. Khóc xong, ngẩng đầu lên nhìn người: “Sư phụ, cuối cùng người đã xuất quan rồi, vết thương đã khỏi chưa? Có để lại thương tật gì không?”.
Người nhìn ta một cái, chỉ khẽ cười nói: “Vẫn còn tốt, không cần ninh ngươi làm canh tẩm bổ cho ta”.
Tình cảm của ta và Ly Kính khi ấy là một mối tư tình bí mật.
Các sư huynh đều cho rằng người ta yêu là Huyền Nữ, vì Huyền Nữ bị Ly Kính cướp đi nên mới sầu não, bi lụy như thế. Quả là rối tung rối mù.
Chỉ có sư phụ Mặc Uyên là nhìn rõ, xoa xoa tóc ta mà khẽ nói: “Đôi mắt của tên Ly Kính đó rất sáng, chỉ tiếc là ánh mắt không được đẹp”.
Sau khi Mặc Uyên xuất quan, liền nhận được thiếp mời của Đông Thần Huyền Minh.
Thượng thần Huyền Minh ở sâu phía bắc của Bắc Hoang, độc chiếm địa giới một vạn hai ngàn dặm của Thiên Bắc. Lần này sắp mở một pháp hội, đặc biệt sai sứ giả đến chờ dưới Côn Luân, cung kính mời Mặc Uyên đến đó đăng đàn giảng đạo.
Vì Mặc Uyên là con trưởng của Phụ Thần sáng thế, địa vị cao quý, đám thượng thần của bốn bể tám cõi mỗi khi khai hội pháp đạo đều khó tránh phải mời người.
Mặc Uyên cầm tấm thiếp liếc qua một cái, nói: “Giảng kinh dạy đạo thực lòng ta chẳng có hứng thú, nhưng ngọn núi mà Huyền Minh ở cũng có nhiều cảnh đẹp, Tiểu Thập Thất, ngươi cũng thu dọn cùng ta đi một chuyến”.
Ta liền vui vẻ đi về phòng gói tay nải.
Đại sư huynh đi theo vừa đi vừa nói, đến cổng còn nhắc nhở ta: “Trước đây sư phụ không dễ dàng nhận những thiếp mời tầm thường như thế này, lần này hẳn vì muốn đệ vui vẻ, mới dẫn đệ đi để giải tỏa tâm trạng, Thập Thất, sư huynh biết đệ trong lòng đau khổ, nhưng sư phụ cả ngày công việc bận rộn, giữa trăm ngàn bề bộn còn tranh thủ thời gian quan tâm đến đệ, quả thực rất lao lực. Đệ cũng lớn như vậy rồi, đương nhiên cần học cách làm thế nào để sư phụ khỏi bận tâm, đấy mới là đạo hiếu của kẻ làm đệ tử”.
Ta ấp úng gật đầu.
Ở Bắc Hoang bảy bảy bốn mươi chín ngày, phần lớn thời gian ta đều rất tiêu dao vui vẻ.
Những lúc Mặc Uyên không giảng kinh, thì ta lượn qua lượn lại ngắm núi non đồng bãi. Đến khi Mặc Uyên lên đài sen, thì ta trà trộn trong đám thần tiên tham dự, ngồi cắn hạt dưa, ngủ gà ngủ gật.
Mặc Uyên xưa nay chưa từng có hứng thú với đạo pháp, nhưng đã bàn luận thì cũng thao thao bất tuyệt, vì thế rất nhiều thần tiên đều đến tranh luận về đạo pháp với người, đại loại về luân hồi tịch diệt, nhân tâm khó lường… Mặc Uyên hết lần này đến lần khác đều thắng, thực sự khiến người ta phải sụt sùi.
Như thế, dường như ta đã vứt được chuyện Ly Kính ra khỏi đầu. Chỉ là mỗi khi đêm về, khó tránh khỏi một đôi lần mơ thấy ác mộng.
Hội đạo pháp của thượng thần Huyền Minh đã diễn ra hết sức viên mãn.
Hội đạo pháp đã kết thúc. Mặc Uyên dẫn ta đến Bắc Hoang chơi thêm ba ngày, mới thu dọn quay về Côn Luân.
Lúc đó bọn ta lại nghe thấy tin nhị hoàng tử của Quỷ tộc lấy vợ. Hôn lễ diễn ra hết sức thoải mái, Quỷ tộc chúc mừng liền chín ngày.
Cung Đại Tử Minh và gò Côn Luân sớm đã tuyệt giao, đương nhiên là sẽ không được gửi thiếp mời. Chỉ là trong thư của đại tẩu gửi đến có nói, mẹ tẩu ấy cực kỳ hài lòng với hôn sự này, Huyền Nữ may mà có ta coi sóc.
Bạch Thiển ta cũng chẳng phải là một kẻ nhỏ nhen. Ly Kính đã phụ bạc ta, chẳng qua cũng là tư tình nữ nhi, sau hàng nghìn hàng vạn năm trôi qua, cũng có một ngày ta hiểu ra, tương phùng cùng nâng chén cũng không phải là chuyện khó làm.
Chỉ cần không xảy ra một số chuyện sau này.
Cái đêm mà Mặc Uyên đến cứu ta và sư huynh Lệnh Vũ đã đánh cho Kình Thương bị thương không nhẹ. Tháng thứ ba sau đại hôn lễ của Ly Kính, Kình Thương đại để cũng trị khỏi thương thế, liền dựng lên cớ Mặc Uyên cướp vợ để khởi binh làm loạn.
Đây thực sự không phải là cái cớ có thể diện. Đừng nói là lúc Mặc Uyên tới cướp người, hắn vẫn còn chưa cùng sư huynh Lệnh Vũ bái đường, cho nên đương nhiên không thể coi là phu thê. Tuy cái danh nghĩa đó rất khiên cưỡng nhưng dù gì cũng thuyết phục được hàng vạn tướng sĩ của Quỷ tộc. Để biểu thị quyết tâm, Kình Thương còn chọn một người con gái trong Quỷ tộc cho Ly Kính, lại đánh cho người vợ mới cưới của Ly Kính là Huyền Nữ một trận tơi bời, máu me đầm đìa rồi đem vứt ở gò Côn Luân.
Đại sư huynh vốn là người có lòng dạ từ bi, lấy một chiếc chăn hoa bọc Huyền Nữ lại rồi bế vào trong.
Mặc Uyên cũng mắt nhắm mắt mở, coi như không thấy chuyện này.
Khi các Quỷ tướng tiến đến ranh giới của hai tộc chừng chưa đến ba mươi dặm, lão Thiên Quân ở Cửu Trùng Thiên phái hai mươi tám tiểu đồng đến thúc giục, Mặc Uyên lúc đó mới lấy bộ Huyền Tinh khôi giáp cất ở đáy rương đã lâu ra giũ cho hết bụi, lạnh nhạt nói: “Kình Thương đã coi ta là cái cớ để hưng binh, mà ta lại là chiến thần cũng không tránh khỏi phải đấu với hắn một trận. Tiểu Thập Thất, ngươi hãy kiểm tra qua bộ áo giáp này, cất đã lâu năm như vậy sợ rằng bị mối mọt cắn hỏng”.
Lão Thiên Quân vô cùng vui mừng, ban cho Mặc Uyên mười vạn thiên tướng cùng ba chén rượu bồ đào để đưa tiễn lúc xuất chinh. Mười bảy huynh đệ chúng ta đứng thành một hàng, ai cũng nhận chức dưới trướng của người.
Đó chính là trận chiến đầu tiên mà ta trải qua trong đời, từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc, đằng đẵng suốt chín chín tám mươi mốt ngày.
Chín chín tám mươi mốt ngày chinh chiến liên miên, khói lửa ngút trời. Mặc Uyên là chiến thần bất bại, đáng nhẽ trận chiến này đã có thể kết thúc chóng vánh, nhưng khi quân của Quỷ tộc binh bại như núi đổ thì Huyền Nữ lại lén lút lấy trộm bản đồ trận pháp của quân Thiên tướng đưa cho Ly Kính, lúc đó mới biết Huyền Nữ bị đánh chỉ là khổ nhục kế, tiếc thay là đại sư huynh lại cứu Huyền Nữ, đường đường chính chính dẫn sói mắt trắng vào cổng núi Côn Luân.
Mặc Uyên đã hao tổn biết bao khí lực để cứu chữa, tổn thương nguyên thần. Nhân lúc Quỷ tộc còn chưa nghiền ngẫm tinh tường bảy bảy bốn mươi chín đạo trận pháp, Mặc Uyên dẫn các Thiên tướng tấn công gấp rút ở một đường khác, bao vây ba vạn tàn tướng của Quỷ tộc ở Nhược Thủy.
Khi đó ta còn rất xuẩn ngốc, không hề nghĩ rằng, cho dù Mặc Uyên có bản lĩnh siêu phàm thì đỡ thay ta ba cú sét cũng đâu phải là trò đùa, sao có thể trong thời gian ngắn ngủi mấy tháng là có thể hồi phục hoàn toàn?
Nếu lúc đó trong lòng ta còn đôi chút hoài nghi thì kết cục cuối cùng đã không như thế.
Nhưng sự phụ che giấu rất giỏi, luôn luôn che giấu rất giỏi.
Trận đánh cuối cùng, hai quân dàn trận bên hai bờ sông Nhược Thủy, mây đen cuồn cuộn giăng kín tầng không.
Ta ngỡ rằng trận này đến đây là kết thúc, sự tình cơ bản vô cùng đơn giản, hoặc là Quỷ tộc dâng thư hàng, hoặc là đợi đến lúc bị diệt tộc; chứ chẳng ngờ giữa đường Kình Thương lại sử dụng tới chuông Đông Hoàng. Đông Hoàng đã được thả ra, vạn kiếp thành tro, muôn cõi tiêu tan. Một thần khí thượng hạng, một thứ vũ khí sắc bén hàng đầu.
Kình Thương cười nói: “Chỉ cần ta còn là vua của Quỷ tộc, thì sẽ không đời nào quy hàng, trời đất dù có đổi vần, thì vẫn còn có thần tiên của tám cõi làm bạn với ta, ta cũng không lấy làm oan uổng”.
Khi đó ta lại rất vững dạ, vì nghĩ rằng tuy chuông Đông Hoàng là một đồ vật có thể hủy diệt trời đất, nhưng rốt cuộc nó vẫn là do Mặc Uyên làm ra, đương nhiên người sẽ có sức mạnh để hóa giải nó.
Ta không hề biết rằng khi đó Mặc Uyên đã cố gắng chống đỡ rồi. Tuy chuông Đông Hoàng là thần khí do người tạo ra, nhưng người cũng không có cách nào để chế ngự được nó. Như thế, muốn ngăn nộ khí của chuông Đông Hoàng chỉ có thể tìm một nguyên thần cực lớn để tế trong khi nó chưa hoàn toàn mở ra.
Trong nháy mắt, chuông Đông Hoàng trong tay Kình Thương đã biến thành khổng lồ, như một đóa sen đỏ trên thượng giới bốc lên rừng rực như lửa địa ngục.
Đến giờ ta vẫn còn nhớ cảnh tượng Mặc Uyên tay chống kiếm Hiên Viên dùng hết sức lao vào ôm lấy chuông Đông Hoàng. Bốn phía quanh chiếc chuông phát ra một thứ ánh sáng đỏ như máu chói lòa, chiếu xuyên qua cơ thể của người. Trong thứ ánh sáng càng lúc càng đỏ rực lên ấy, người đột nhiên quay đầu lại, khẽ nhếch khóe môi.
Sau đó, Thất sư huynh là người sở trường về đọc khẩu hình nói với ta rằng, trước lúc lâm chung, sư phụ chỉ nói hai tiếng, đó là: “Đợi ta”.
Mặc Uyên là chủ nhân của chuông Đông Hoàng, đương nhiên là người hiểu về chuông Đông Hoàng hơn ai hết. Trước khi bị chuông hấp thu hết tu vi, Mặc Uyên vẫn cố gắng kéo dài pháp thuật, liều mình đến khi hồn tiêu phách tán, sống chết bắt Kình Thương nhốt vào trong chuông Đông Hoàng. Như thế, cho dù là kẻ đầu tiên dám sử dụng thần khí của tám cõi thì Quỷ tộc cũng không thể có lợi đến nửa điểm.
Quỷ Quân đã bị giam, con trai cả của hắn vốn được phong làm tướng quân đã dẫn ba vạn tàn quân, run như cầy sấy trước mặt mười vạn Thiên Quân, vội vàng dâng thư hàng.
Tứ sư huynh nói, lúc đó ta ôm lấy Mặc Uyên toàn thân máu tươi đầm đìa, đôi mắt đỏ ngầu toàn tia máu, nhất quyết không chịu nhận thư hàng của đại hoàng tử của Quỷ tộc, mười ngón tay nắm chặt chiếc quạt trong tay, nghiến răng nghiến lợi quát, nếu không cứu được sư phụ thì sẽ phải đem hết người trong thiên hạ ra bồi táng, suýt chút nữa đã làm lỡ đại sự của Lão Thiên Quân trên Cửu Trùng Thiên.
Mấy vị sư huynh quá sốt ruột, đành phải đánh ngất ta, rồi đưa đi cùng với di thể của sư phụ về núi Côn Luân.
Tứ sư huynh cho rằng lúc đó ta thực sự đã biến thành thổ phỉ, còn ta thì chẳng có chút ấn tượng nào. Còn nhớ một đêm tỉnh dậy, ta thấy mình cùng nằm với Mặc Uyên trên một chiếc sập gỗ, hai tay ta níu chặt lấy mười ngón tay của người, còn người thì không thở.
Cái loạn Quỷ tộc đã kết thúc như thế. Nghe nói ngay sau đó cung Đại Tử Minh xảy ra một trận biến loạn, đại hoàng tử bị bắt giam, nhị hoàng tử Ly Kính thân khoác lam bào, đăng cơ vương vị. Ngày kế vị, hắn dâng đóa sen Hàn Nguyệt quý hiếm trong hoa viên lên Lão Thiên Quân làm cống phẩm.
Lão Thiên Quân sai mười tám vị thượng tiên hạ giới, nói là giúp mười bảy sư huynh đệ chúng ta lo liệu hậu sự cho Mặc Uyên. Ta đầu tóc bù xù, cũng chẳng biết lấy sức lực từ đâu mà cầm cây quạt đánh đuổi thẳng cổ mười tám tên thượng tiên này ra khỏi núi Côn Luân.
Thất sư huynh an ủi ta, nói: “Sư phụ tuy đã cưỡi hạc khuất núi, nhưng chính miệng người đã dặn chúng ta đợi người, nếu như có thể bảo quản tốt tiên thể của sư phụ, không chừng người sẽ quay trở lại thật chăng?”.
Ta như người chết đuối vớ được một cọng rơm.
Để bảo quản tiên thể của Mặc Uyên cũng không quá khó, tuy khắp bốn bể tám cõi mọi người đều không biết, nhưng loài hồ ly ở Thanh Khâu e rằng đều biết hết, máu từ trái tim Cửu Vỹ Bạch Hồ (cáo trắng chín đuôi) chính là loại thần dược tốt nhất. Vì thế, tìm một con Cửu Vĩ Bạch Hồ, mỗi ngày lấy một bát máu tim của nó, đem nuôi thân thể của Mặc Uyên là được rồi.
Vì Mặc Uyên là nam thần, nên phải tìm một con hồ ly cái, thì âm dương mới hài hòa. Vừa hay, ta chính là một con hồ ly cái. Hơn nữa lại là một con hồ ly cái có tu vi không tồi, thế nên ta tự mình lấy dao trích vào tim, lấy máu nuôi sống Mặc Uyên. Nhưng lúc đó thương thế của ta cũng rất trầm trọng, sau hai đêm liên tục lấy máu tim thì đã không thể gượng được nữa.
Đây thực sự cũng là một loại phép thuật, Mặc Uyên nhận máu của ta, đã dùng phép thuật này để bảo quản tiên thể của người thì phải luôn luôn dùng máu của ta, không thể đi tìm con hồ ly khác được.
Ta lo lắng khôn cùng, sầu não vô biên. Vừa hay lúc đó lại nghe nói Quỷ tộc có một quả hồn ngọc, nếu đặt nó vào trong miệng của Mặc Uyên thì thi thể sẽ mãi mãi không rữa nát. Chỉ có điều quả ngọc hồn đó là thánh vật của Quỷ tộc, rất khó lấy được.
Ta chẳng màng tới những gút mắc với Ly Kính, chỉ hy vọng hắn vẫn còn niệm chút tình bạn giữa ta và hắn buổi ban đầu, cho ta mượn quả hồn ngọc này. Tuy rằng Quỷ tộc của hắn chính là thủ phạm làm cho Mặc Uyên đến mức này, nhưng trên chiến trường ai đúng ai sai nào phân được rõ ràng.
Khi ấy ta là một kẻ chịu hạ mình như thế nào!
Trong cung Đại Tử Minh chói lọi, Ly Kính ngồi trên cao dò xét ta hồi lâu, sau khi lên ngôi Quỷ Quân, hắn thực sự đã uy nghiêm hơn trước rất nhiều.
Hắn thong thả nói với ta: “Quả hồn ngọc tuy là thánh vật của Quỷ tộc ta, dựa vào mối giao tình giữa bản quân và thượng tiên, thực sự cũng đáng cho thượng tiên mượn một phen, ngặt nỗi trong cung vừa có biến lớn, hồn ngọc cũng mất mấy ngày nay, thực lòng xin lỗi thượng tiên”.
Dường như giữa trời quang bỗng có sấm sét đánh trúng đầu ta, nhất thời đầu óc trống rỗng.
Loạng choạng bước ra khỏi cung Đại Tử Minh, lại gặp ngay Huyền Nữ ăn vận hoa lệ. Ả ta vờ cung kính cười nói: “Thượng tiên Tư Âm từ xa tới đây, sao không nghỉ ngơi rồi hãy đi, thượng tiên đi như thế này chẳng phải cung Đại Tử Minh của chúng ta tiếp đãi không được chu đáo sao?”.
Tuy ta vô cùng chán ghét ả ta, nhưng lúc đó cõi lòng tan nát, chẳng còn hơi sức đâu mà tranh cãi nên lượn vòng qua, tiếp tục đi đường ta. Ả ta lại chẳng biết tốt xấu, giơ một tay chắn ngang trước mặt ta, thỏ thẻ: “Lần này há chẳng phải thượng tiên tới cầu quả hồn ngọc sao?”. Trên bàn tay trắng ngọc ngà đó là một viên đá quý tỏa sáng lấp lánh.
Ta hoang mang ngẩng đầu nhìn ả ta. Ả ta cười hi hi: “Mấy ngày trước, quân thượng đã đem nó giao cho ta, để ta di lên những vết sẹo trên người. Trận đòn roi đó của Kình Thương quả thực không nhẹ, đến bây giờ vẫn còn để lại mấy vết sẹo. Ngươi biết đấy, con gái nhà người ta mà có sẹo trên người thì chẳng hay tý nào, đúng không?”.
Trên người con gái mà có vết sẹo, quả thực không hay. Ta ngẩng đầu nhìn trời cười khan ba tiếng, bèn dùng phép định thân, rồi cắp kẹp cứng Huyền Nữ dưới nách, sử dụng Chiết Phiến, đánh thẳng vào triều đường của Ly Kính, cầm tay phải của Huyền Nữ giơ ra trước mặt hắn ta.
Khuôn mặt tuyệt sắc của hắn ta lúc đó trắng bệch như tuyết, ngẩng đầu lên nhìn ta, miệng há ra nhưng chẳng nói được lời nào.
Ta ném Huyền Nữ vào trong lòng hắn, rồi lùi về phía sau đi tới cửa điện, cất tiếng cười bi thảm: “Việc mà cả đời Tư Âm này hối hận chính là đã đến cung Đại Tử Minh này để gặp Quỷ Quân Ly Kính ngươi. Hai vợ chồng lòng lang dạ sói các ngươi thật xứng đôi vừa lứa. Từ nay, Tư Âm ta không đội trời chung với cung Đại Tử Minh nhà ngươi”.
Khi đó ta tuổi trẻ bồng bột, không cướp lấy hồn ngọc, mà đi khỏi cung Đại Tử Minh.
Khi về đến Côn Luân, nhìn thấy sắc mặt nhợt nhạt của Mặc Uyên thì lại chẳng nghĩ ra được cách nào hay.
Chập choạng tối, ta lấy trộm một liều thuốc mê từ phòng luyện đan, trộn vào trong cơm của các vị sư huynh.
Đêm khuya, nhân lúc các sư huynh ngủ mê mệt, ta lén cõng Mặc Uyên rời khỏi Côn Luân, dọc đường tốc hành, đem người về Thanh Khâu.
Hướng chính bắc của Thanh Khâu có một ngọn núi nhỏ là Phong Di. Lưng chừng núi có một sơn động hội tụ linh khí, cha ta đặt tên cho nó là Viêm Hoa động. Ta đặt Mặc Uyên nằm trên chiếc giường băng. Vì lo lắng tự lấy máu của mình ra, ngộ nhỡ nếu chẳng có sức mà bưng đến để cho người uống thì sẽ không xong, nên ta dứt khoát nằm cạnh túc trực bên người.
Mặc Uyên thương tích đầy mình, đến mức ngày ngày uống máu của ta, cho đến khi vết thương khỏi hẳn thì mới giảm xuống còn một tháng một bát máu.
Ta thực sự không hiểu còn có thể lấy máu cho người uống mấy đêm nữa, mà chỉ nghĩ rằng nếu như ta chết đi thì người cũng không thể quay trở lại nữa. Hai người bọn ta chôn chung một chỗ, cũng có thể làm bạn giữa chốn u minh, nên đưa Mặc Uyên tới động Viêm Hoa. Động này vốn là ta tự chọn làm chỗ ẩn náu cho mình trước khi xảy ra thiên kiếp.
Cứ như thế đã bảy ngày trôi qua.
Ta cứ ngỡ rằng mình sẽ chẳng thể sống thêm được nữa. Khi mở mắt ra thì lại nhìn thấy mẹ với đôi mắt sưng đỏ.
Mẹ đã truyền cho ta một nửa tu vi của mình, ta mới có thể cứu lại tính mạng, cũng khôi phục luôn hình dáng con gái của mình.
Được thêm sự chăm sóc của mẹ, tuy lồng ngực ta ngày ngày vẫn trích một dao để lấy máu nuôi Mặc Uyên, nhưng cũng không còn quá đau đớn khổ sở nữa, chỉ còn điều vẫn chưa thể đi lại được.
Mẹ lo lắng ta buồn chán, nên cố ý mượn rất nhiều sách vở từ chỗ Chiết Nhan mang về động để cho ta tiêu khiển.
Nhờ thế ta mới biết, việc mang trộm Mặc Uyên từ núi Côn Luân về đây lúc đầu đã làm khó các thần quan biên soạn thiên sử. Họ phải viết một câu chuyện tuyên dương công đức của Mặc Uyên, nhưng viết đến đoạn cuối thì lại không biết phải khảo chứng về dấu tích tiên cốt của người ở đâu, nên đã để Mặc Uyên trở thành vị thần tiên duy nhất có sinh ra mà không có mất đi trong lịch sử của thần tiên, cũng không biết đã dẫn ra biết bao lời đồn thổi trong đám thần tiên hậu bối.
Sau này khi Chiết Nhan tới Thanh Khâu thăm ta cũng có nhắc tới sự việc này. Lão quấn tay áo lại, mỉm cười: “Bây giờ bốn biển tám cõi đương thật ồn ào, chuyện gì cũng có, trong phủ Tấn Văn có một tiểu tiên có tài viết lách đã phỏng đoán giữa ngươi và Mặc Uyên nảy sinh mối tình đoạn tụ, ngặt nỗi lại mang danh phận thầy trò, nên chẳng hợp với lễ. Thế nên Mặc Uyên mới cố tình giả vờ chết, để cùng ngươi vui vầy. Kể ra sự tình như vậy cũng khá là hợp lý cho nên ta mới qua đây xem thế nào”.
Ta dở khóc dở cười, Tấn Văn là thượng thần cai quản việc văn chương, nắm trong tay đại quyền chỉnh sửa lễ pháp của thần tộc. Đám thần tiên trong phủ của ông ta đều là những người chế định lễ pháp của thần tộc, tư tưởng lại “thoáng” như vậy thực sự khiến người ta phải ngưỡng mộ.
Nghe nói các sư huynh trên đỉnh Côn Luân đã tìm ta suốt mấy nghìn năm, nhưng chẳng ai ngờ thân ta là tiên nữ, mà còn là Bạch Thiển của nhà họ Bạch ở Thanh Khâu, đương nhiên tìm kiếm chẳng thể có kết quả nên đành thôi.
Cho đến nay, trong cuốn sử chính thống nhất trên Cửu Trùng Thiên vẫn còn ghi như thế này: “… Mùa thu năm sáu vạn ba nghìn lẻ tám mươi hai, niên hiệu Hạo Đức Quân, loạn Quỷ tộc chấm dứt, con trai đích của Phụ Thần Mặc Uyên cùng đệ tử thứ mười bảy Tư Âm cùng nhau quy ẩn, không thể tra ra tung tích…”.
Tóm lại không ghi chép về đoạn ta trộm lấy tiên thể của Mặc Uyên, vẫn còn chừa lại thể diện cho ta.
Sống quá lâu, hễ nhớ lại chuyện cũ là không thể nhớ hết.
Ly Kính đã chạy qua cầu tre, tới trước mặt ta, ta mới hốt hoảng nhớ ra mình vừa nhảy vào một động lớn, bắt gặp cảnh Quỷ Quân và một yêu nữ đang hẹn hò bí mật.
Hắn nắm chặt tay ta, thành khẩn nói: “A Âm, huynh tìm đệ đã bảy vạn năm rồi”.
Ta liếc nhìn yêu nữ đang đứng trong thảo đình, băn khoăn không hiểu. Chỉ nghe nói chủ nợ đuổi theo con nợ, chứ chưa hề nghe nói con nợ ngày ngày chạy tới chạy lui đến trước mặt chủ nợ, còn hết lần này đến lần khác nhắc người ta rằng “sao ngươi không đòi nợ ta”. Nhưng dù tính thế nào, giữa ta và Ly Kính thì hắn nợ ta khá nhiều.
Ta gỡ tay hắn ra, lùi về sau một bước. Hắn lại tiến lên trên một bước, nhìn thẳng vào ta mà nói: “Hình dáng đàn ông của đệ vốn rất đẹp, sao phải hóa trang thành con gái thế này. A Âm, có phải đệ vẫn còn oán huynh? Năm đó đệ nói sẽ không đội trời chung với cung Đại Tử Minh, đệ có biết huynh…”.
Ta phất phất tay áo, gượng cười: “Quỷ Quân không cần bận tâm, chẳng qua là lời nói lúc nóng giận, đến nay Quỷ tộc xứ xứ thanh bình, lão thân cũng chẳng sống uổng bao năm qua, cũng hiểu được chút đạo lý, tuyệt đối sẽ không tới quấy nhiễu sự thái bình của cung Đại Tử Minh. Ngài và ta nước sông không phạm nước giếng”.
Hắn ngẩn người ra, vội vàng nói: “A Âm, năm đó là huynh phụ đệ, vì đệ không phải là con gái, nên huynh, huynh… Bảy vạn năm đã trôi qua, bọn họ cũng đã nói với huynh, đệ đã, đệ đã… Huynh vẫn không tin, huynh đã nhớ đệ biết bao năm qua, A Âm”.
Ta bị mấy câu A Âm, A Âm của hắn làm cho quay cuồng đầu óc, sây xẩm mặt mày, giận dữ nói: “Ai nói ta không phải là con gái, ngươi mở to mắt ra mà nhìn, có tên đàn ông nào giống như ta không?”.
Bàn tay định nắm lấy tay ta của hắn ngưng lại giữa chừng không, hồi lâu sau mới nghẹn ngào: “Đệ là con gái? Vậy năm đó, năm đó nàng…”.
Ta bèn nghiêng người tránh: “Gia sư không thu nhận nữ đệ tử, gia mẫu mới biến ta thành đàn ông. Quỷ Quân đã nhắc lại chuyện năm đó, ta cũng sẽ nhắc lại chuyện năm đó. Năm đó, Quỷ Quân từ bỏ ta, chọn Huyền Nữ, bốn con kỳ lân tới rước ả vào cung Đại Tử Minh, tiệc cưới linh đình suốt chín ngày, là vì cưới hỏi đàng hoàng…”
Hắn xua tay ngắt lời ta: “Năm đó trong lòng nàng có buồn không? Tại sao không nới với ta rằng mình là con gái?”.
Ta bị hắn hỏi vặn như vậy, liền quên sạch những lời sắp nói khi nãy, ngắc ngứ một hồi cũng thành thật trả lời hắn: “Năm đó cũng buồn bã ghê gớm, nhưng giờ chẳng còn nhớ rõ nữa. Hơn nữa, ngươi yêu mến Huyền Nữ ắt hẳn vì tính nết của nàng ta, chẳng nhẽ lại chỉ vì khuôn mặt đó sao? Ta cùng ngươi đã chẳng còn dây dưa, có nhắc lại hay không cũng như nhau mà thôi”.
Hắn căn chặt môi.
Ta chỉ cảm thấy đêm nay mình vô cùng đen đủi, nhìn hắn không nói nổi nên lời, ta bèn vội vàng thi lễ, xoay mình bắt quyết cưỡi gió mà đi, nhân tiện cũng tàng hình, để tránh bị đeo đuổi.
Chỉ nghe thấy tiếng gọi A Âm thảng thốt sau lưng.
Nhưng thế gian nào còn A Âm nữa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét