Khi ta còn học nghệ ở núi Côn Luân, quy củ trên núi tương đối nghiêm khắc. Buổi sáng, khi chưa tới giờ Thìn đã phải thức dậy học bài, buổi tối không quá giờ Tý là phải tắt đèn đi ngủ.
Vì ta và đại sư huynh đi chơi loanh quanh, đợi sư phụ ra ngoài, thi thoảng cũng có thể lén trốn một buổi học, ngủ nướng thêm một canh giờ, đến cuối giờ Tỵ mới dậy. Nhưng nhiều lắm cũng chỉ là cuối giờ Tỵ mà thôi. Thói quen được nuôi dưỡng trong nhiều năm, tuy nay ta đã rời khỏi sư môn bảy vạn năm nhưng vẫn nhớ. Cho dù ngày đông người có lười nhác, cũng không thể nằm trên giường quá giờ Tỵ được. Thế nên, dù ngày hôm qua ta cực sung sướng đến làm loạn một trận ở cung Đại Tử Minh, đầy mình thương tích, chân tay đau nhức đến mức đầu óc tê buốt, đến giờ Thìn ta vẫn tỉnh dậy. Nhìn thấy mình đang nằm trên chiếc giường lớn chạm trổ hoa ở động Hồ Ly là ta thấy an lòng rồi.
Hôm qua, ta ngất cũng khá đúng lúc, còn chưa nhìn thấy Dạ Hoa mang ba người bọn ta – Mặc Uyên, cục bột nhỏ và ta ra về, nhưng với tu vi của hắn thì làm việc đó cũng đâu khó.
Mê Cốc xưa nay vốn nhanh nhẹn, hẳn là đã đem tiên thể của Mặc Uyên về động Viêm Hoa, nhưng không biết tư thế lão đặt có phải là tư thế Mặc Uyên hay nằm ngủ không. Ta không an tâm lắm, bèn giở chăn dậy đi xem sao.
Vừa cử động, đã chạm tới vết thương trước ngực, đau đến mức ta phải thở hắt ra một hơi lạnh. Nghe thấy tiếng thở của ta, thứ ở bên cạnh chăn bỗng nhúc nhích. Ta chớp chớp mắt muốn nhìn kỹ, lại bị giật mình trước ánh mắt nóng như lửa đốt đó. Chủ nhân của ánh mắt đó đang nhoài người nằm bên mép giường của ta, vừa lo lắng, vừa hiền hòa, lại vừa vui mừng nhìn ta.
Ta ngẩn người ra.
Ta ngẩn người ra là có lý do của nó.
Theo như vở kịch mà ta đọc được khi ở phàm giới, nếu một thư sinh khi đi đường gặp phải một sơn tặc, thì một hiệp sĩ giữa đàng rút đao giải cứu, đợi thư sinh kia trấn tĩnh sau cơn kinh sợ, kẻ lên sân khấu đương nhiên sẽ là vị hiệp sĩ ân nhân trẻ tuổi kia, tuyệt nhiên không có vở kịch nào lại chêm vào lính chạy cờ (24) trong hồi gay cấn như vậy. Tình thế trước mắt ta chính là một thư sinh gặp phải cường đạo, vốn đây là thời cơ tốt cho Dạ Hoa hiệp nghĩa gan dạ lên sân khấu, nhưng lại bị một người không quen không biết chạy tới. Vì thế, ta mới giật mình sững sờ như thế.
Vị nhân huynh lính chạy cờ kia mắt sáng rỡ lên nhìn ta một hồi, khẽ giọng nói: “Nàng, bây giờ nàng cảm thấy thế nào?”.
Ta thận trọng đi tới, đáp: “Ngủ một giấc, tinh thần đã hồi phục tám, chín phần rồi”.
Thật ra ta là một thượng thần, tiên thân tuy đã sớm được rèn luyện qua kiếp nạn, thương thế được nghỉ ngơi thì cũng hồi phục sớm hơn người thường, nhưng cũng không đến mức nhanh như vậy. Ta nói dối, là vì ta có chút khúc mắc với vị nhân huynh trước mặt. Nếu ta tỏ ra yếu đuối trước mặt hắn, hắn sẽ nhân lúc ta bị trọng thương, âm thầm hạ độc thủ, thực sự đau đớn lắm thay.
Nguồn duyên giữa ta và vị nhân huynh này thì phải truy ngược về khi Chiết Nhan tặng cho tứ ca ta vật cưỡi là Tất Phương điểu (25). Con Tất Phương mà Chiết Nhan săn được từ Tây Sơn về chính là vị nhân huynh áo khăn chỉnh tề trước mặt ta bây giờ.
Khi Tất Phương còn là vật cưỡi của tứ ca, chúng ta đối xử với nhau rất tốt, hắn còn chở một mình ta đến rừng đào mười dặm ăn đào mấy lần, uống rượu mấy bận. Sau này không biết vì duyên cớ gì mà không chịu chở ta nữa.
May mà hơn một ngàn tám trăm năm sau ta mới biết được nguyên nhân.
Đại khái là hắn thích Phượng Cửu, Phượng Cửu lại quấn quýt bên ta, cho nên hắn mới đâm ra có chút hiềm khích với ta.
Hắn ghen tuông như vậy thực vô lý, ta với hắn đâu phải quen biết sơ sơ, vậy mà hắn lại quá nhỏ mọn, dường như mỗi ngày không cãi nhau với ta hai câu thì không sống được. Cho nên sau khi hắn đi, ta mới được sống những ngày yên ổn.
Cửa sổ đang mở toang, ánh sáng tuy không gắt, nhưng mắt ta vốn không tốt, bị hoa mắt đến buốt nhói. Tất Phương vội vàng chạy tới nói: “Ta khép cửa lại nhé?”.
Ta giật mình trước sự khiêm nhường và dịu dàng của hắn, mũi “hừ” một tiếng.
Hắn đóng cửa sổ lại, rồi lại vân vê mép chăn của ta, dựa bên giường một lát, rồi lại thân mật hỏi ta có uống nước không. Đến Mê Cốc cũng chẳng chu đáo, tỉ mỉ được như thế.
Ta cũng hơi khát, nhưng hành vi của Tất Phương lại khiến lòng ta nghi hoặc, đợi hắn đi rót trà, trong lúc hoang mang ta cũng hơi hiểu ra.
Ta rầu rầu, cười hỏi: “Tứ ca? Có phải tứ ca không? Vì muội đánh nhau nên pháp lực suy yếu, không nhận ra nổi phép biến hóa, nên huynh hóa Tất Phương để trêu muội. Hi hi, dáng vẻ hóa giống lắm, nhưng tính cách lại diễn không giống, huynh chưa thấy dáng vẻ Tất Phương lúc nóng lúc lạnh với muội thường ngày…”.
Bóng người đang rót trà dừng lại. Hắn quay đầu, thần sắc phức tạp: “Ta không có biến hóa, ta thực sự là Tất Phương, thượng thần cùng điện hạ đi Tây Hải giải quyết công chuyện rồi, một mình ra ở rừng đào cũng thấy chán, nên tới đây thăm nàng”.
Ta ngây ra, khóe môi giật giật mấy cái, gượng cười: “Ha ha, loài chim bay các ngươi tính lạnh, vốn trời sinh đã không giống loài thú chạy chúng ta, ta nói như thế, người chớ để trong lòng, chớ để trong lòng nhé…”.
Nét mặt hắn nhìn không ra là mừng hay giận, đoạn rót trà rồi đỡ ta uống hai ngụm, nhìn ta im lặng hồi lâu, bỗng nói: “Nếu lúc đó ta ở bên cạnh nàng, liều hết tu vi của ta quyết sẽ không để chúng chạm đến một sợi lông tơ của nàng”.
Ta cười cười: “Đều là ở động Hồ Ly mà ra cả, đó là tự nhiên, đó là tự nhiên, Tất Phương, bao giờ ngươi hẹn đánh nhau với người ta, ta cũng sẽ trợ uy giúp ngươi”. Lại nghĩ đến câu hắn nói “liều hết tu vi của ta”, từ “trợ uy” của ta tự nhiên hạ xuống thật khẽ, thật khẽ, bèn ho một tiếng bổ sung: “Cho dù là đánh tan thành tro bụi”. Tự nhiên cảm thấy ta nói năng còn tình cảm hơn cả hắn, cũng cảm thấy có chút mừng vui.
Mấy câu nói năng tình cảm này chẳng qua chỉ là đưa chuyện, quá ư dễ, hắn đưa một câu ta tiếp một câu, cho dù chẳng thật lòng, nhưng vẫn được người ta dễ chịu. Nhưng Tất Phương xem ra lại không dễ chịu như thế, hai mắt nhìn ta chằm chằm, tuy là chằm chằm nhưng vẫn khác so với thường ngày, có chút còn hơi kỳ quái.
Ta hắng giọng một cái.
Hắn quay người lại: “Thiển Thiển, nàng định giả ngây đến bao giờ, rõ ràng biết từ khi ở Thanh Khâu ta đã thương nhớ nàng rồi, nhưng nàng lại nói những lời chọc tức ta”.
Ta sốc.
Mẹ ơi, người ta nói loài lông vũ là chung thủy nhất, không động tình thì chớ, hễ động tình là đến chết không thôi, nếu thương nhớ một người, thì chắc chắn đến già vẫn thương nhớ người đó. Tất Phương đã thương nhớ cháu gái ta, theo truyền thống loài lông vũ nhà hắn, thì vẫn mãi thương nhớ mới phải, vậy hắn đã chuyển sang ta từ lúc nào, lúc nào?
Hắn nói tiếp: “Vì nàng và thái tử của Thiên tộc đã sớm có hôn ước, ta đành phải chôn giấu mối chân tình. Nhưng lần này, lần này, nàng gặp đại nạn, hắn lại chẳng thể bảo vệ nàng. Nghe nói, ở Thiên Cung hắn còn nạp một thứ phi, ta đi bao ngày như thế cũng đã dò la rất kỹ, hắn phong lưu như vậy, cũng không biết toàn tâm toàn ý với nàng, ta làm sao an tâm giao nàng cho hắn, ta….”.
Hắn còn chưa nói hết lời, cửa đã “cạch” một tiếng, mở ra.
Dạ Hoa thần sắc xanh xao đứng ở cửa, trong tay bê một bát thuốc vẫn còn bốc hơi nóng nghi ngút. Trong lúc hoang mang ta vẫn cảm nhận được, đoạn báo ân bỗng biến thành đoạn trăng gió, vở kịch này quả là một vở kịch độc đáo.
Tất Phương liếc xéo Dạ Hoa, không nói không rằng.
Dạ Hoa đặt bát thuốc lên án thư, vì Tất Phương đứng bên cạnh giường nên đành ngồi xuống cạnh án thư, lạnh lùng, im lặng.
Trong căn phòng tràn ngập sự tĩnh lặng.
Nhân lúc rảnh rỗi, ta định bảo Tất Phương nói hết những lời vừa rồi. Vừa nãy hắn nói ta và Dạ Hoa đã có hôn ước, nên mới chôn giấu mối chân tình.
Mối chân tình của hắn quả thực chôn quá sâu, đến nỗi một vạn tám nghìn năm trôi qua ta cũng không nhìn ra, hi hi hi.
Tuy ta không có ý gì với Tất Phương, nhưng hắn nói thương nhớ ta, nay đột ngột thổ lộ khiến ta vui thầm trong lòng. Từ khi Tang Tịch thoái hôn, Thiên Quân ban đạo thiên chỉ đó, căn bản ta đều lẻ loi một mình, tẻ nhạt hơn rất nhiều so với những thần tiên đồng lứa. Tuy bề ngoài ta tỏ vẻ coi thường, nhưng trong lòng ta lại rất để ý chuyện này. Vì thế khi Tất Phương bày tỏ, cũng đã khiến nỗi chua xót và sự cảm động dồn nén trong suốt năm vạn năm qua của ta được giãi bày.
Ta cảm thấy cho dù không thỏa nguyện cho Tất Phương thì cũng phải nói lời từ chối thật tế nhị, không thể làm tổn thương trái tim của hắn, nên nói: “Chuyện này, chung quy ta cũng đính ước với Thiên tộc trước, ta và ngươi, ta và ngươi đành có duyên mà không có phận. Ngươi nói thương nhớ ta, ta cũng rất thích. Nhưng phàm chuyện gì cũng cần có đầu có cuối, đúng không?”.
Hai mắt Tất Phương sáng lên, hắn nói: “Nếu nàng có thể bên ta, ta nguyện gánh tội với Thiên tộc”, nói đoạn quay sang lườm Dạ Hoa, ta mới chú ý rằng trong khói sương mù mịt, sắc mặt của Dạ Hoa đã khó có thể dùng lời để tả được.
Dạ Hoa trưng cái bản mặt khó coi đó đương nhiên cũng có lý của hắn ta. Ta cũng hiểu, thân là vợ chưa cưới của hắn, lại cùng một nam tử nói chuyện yêu đương trước mặt hắn thì cũng hơi hoang đường, làm mất thể diện của hắn. Nhưng ta với Tất Phương thực sự quang minh chính đại, là lần này hắn tới không đúng lúc, ta không thể vì hắn xông tới mà đá Tất Phương. Rốt cuộc mối giao tình của ta và Tất Phương cũng không tồi.
Trong lòng đắn đo, ta hỏi Dạ Hoa: “Hay ngươi ra ngoài trước đi?”.
Hắn không thèm đếm xỉa tới ta, cúi đầu nhìn bát thuốc đen sì đó.
Tất Phương lại ngồi gần ta thêm một tiếng, dịu dàng nói: “Nàng nói đi, nàng có bằng lòng theo ta không?”.
Làm như vậy trước mặt Dạ Hoa, Tất Phương cũng to gan thật đấy.
Ta cười cười: “Ngươi cũng phải biết ta là người rất coi trọng lễ tiết, đã đính ước với Thiên tộc, ta quyết không làm điều gì để Thanh Khâu và Cửu Trùng Thiên phải khó xử. Tâm ý của ngươi ta xin nhận, cũng vô cùng cảm kích. Nhưng chúng ta quả thực có duyên mà không có phận, không cần phải nói nhiều, nếu ngươi một lòng nghĩ đến ta thì hãy thôi đi, cứ tiếp tục chôn giấu đi, ta cũng hiểu được trái tim của ngươi, mãi mãi cũng không dám quên”.
Những lời này đương nhiên ta nói rất kín kẽ, từ tốn, giữ thể diện cho cả Tất Phương lẫn Dạ Hoa.
Tất Phương đờ đẫn nhìn ta một lát, thở dài một tiếng, lại đắp chăn cho ta, rồi quay người đi ra khỏi phòng. Dạ Hoa vẫn đứng bên án thư, trong làn khói thuốc, không nhìn rõ được khuôn mặt.
Ta ngủ một giấc, tinh thần chỉ khôi phục được một phần mười mà thôi, cùng Tất Phương nói chuyện một hồi, lúc vui lúc sợ lúc lo lúc sầu, đại thương nguyên thần, trong lúc lo lắng vẫn canh cánh muốn đến động Viêm Hoa một chuyến, lúc này Dạ Hoa vẫn đứng trong phòng của ta, nên cũng không tiện đi. Ta đắn đo tìm một cái cớ để đuổi hắn đi, nghĩ mãi nghĩ mãi, bèn tức giận nói với hắn: “Hầy, phiền ngươi bưng thuốc cho ta, ta bỗng cảm thấy buồn ngủ, uống xong thuốc ta sẽ ngủ một giấc, ngươi cứ làm việc của người đi”.
Hắn “ừ” một tiếng, rồi bưng thuốc qua.
Thuốc đắng dã tật, thuốc đắng như thế này, quả nhiên là thuốc tốt. Một bát thuốc trôi xuống ruột, đắng từ đầu lưỡi chạy xuống chân, rồi từ chân lại chạy lên lưỡi, khiến ta sặc sụa một hồi.
Dạ Hoa tiếp tục đặt bát thuốc trên ghế, nhưng vẫn chưa đi, chỉ quay đầu nhìn ta, nói: “Nàng biết không, mỗi lần nàng không muốn ta đứng trước mặt nàng, nàng đều kiếm cớ buồn ngủ? Lúc này nàng không phải đang kiếm cớ thật chứ?”.
Ta ngẩn người.
Thành thực mà nói là ta đang kiếm cớ, nhưng chuyến này là ta bất đắc dĩ nên mới nói thế, chứ không phải lần nào cũng vậy.
Ta còn đang mải nghĩ đến chữ “lần nào” ấy, thì hắn đã xiết lấy eo ta. Vì ta bị thương cũng nặng, nên bất giác hiện nguyên hình, thân hình hồ ly không được như thân người, eo là eo mà chân là chân, vậy mà hắn có thể phân biệt được eo của hồ ly khiến ta bội phục.
Hắn trầm giọng, chầm chậm gọi: “Thiển Thiển”.
Ta “ơi” một tiếng,
Hắn lại xiết chặt hơn, không nói gì nữa. Lát sau, cuối cùng vẫn thốt một câu: “Những gì nàng nói vừa nãy, là thật lòng chứ?”.
Ta hơi không hiểu, những lời vừa nãy của ta, đều là nói cho Tất Phương nghe, đâu liên quan gì tới hắn. Ta thật lòng hay không, rõ ràng phải để Tất Phương hỏi mới phải.
Hắn cúi đầu dường như cười một tiếng, tiếng cười này như thể không biết phải làm sao: “Lần này nàng để mặc ta ôm nàng, những ngày ta đến ở Thanh Khâu, nàng ngày ngày rót nước pha trà cho ta, cùng ta đánh cờ, cũng đều vì hai chúng ta có hôn ước hay sao? Nếu như đính ước với nàng là một người khác, nàng…” Hắn càng ôm ta chặt hơn, thở dài một tiếng, nhưng không nói tiếp nữa.
Ta lấy làm thắc mắc, thấy câu hỏi của hắn kỳ quặc vô cùng, đây chẳng phải là chuyện đương nhiên sao, nếu không phải hai chúng ta có hôn ước từ trước thì hắn có thể ở chỗ ta kiếm chác hết lần này đến lần khác sao? Hẳn là lúc chuẩn bị đến Thanh Khâu ở đã bị Mê Cốc đánh đuổi đi, làm gì có chuyện vào trong động Hồ Ly, lại được phân cho một gian nhà tốt? Còn chưa nói ta còn chia cho hắn thư phòng mà tam ca lâu ngày không dùng, đối đãi ân cần với hắn như vậy.
Nhưng từ khi quen biết, hắn đã có tính cách dù núi Thái Sơn sập xuống trước mặt cũng không chớp mắt ấy rồi, bây giờ lại tỏ dáng vẻ yếu đuối trước mặt ta, quả thực hơi bất thường.
Ta cười khan hai tiếng: “Ta đối với ngươi tốt một chút cũng không hoàn toàn là vì hôn ước”.
Hắn đờ ra, ngẩng đầu nhìn ta, ánh mắt lóe sáng. Ta bị hắn nhìn thành ra mất tự nhiên, hắng giọng nói: “Trong những ngày ngươi ở động Hồ Ly, ngày nào cũng phê công văn rất vất vả, vậy mà vẫn nhớ nấu cơm cho chúng ta ăn. Điều này ta đều nhớ cả, luôn luôn ghi nhớ trong lòng. Có câu có qua có lại mới toại lòng nhau, ngươi ném cho ta một quả đào, đương nhiên ta cũng phải trao lại cho ngươi một quả mận, không có mận thì lấy quả tỳ bà thay cũng được. Đổi lại là hôn ước giữa ta và một người khác, thì hắn chưa chắc đã làm được như ngươi, còn ta cũng chưa chắc có thể nhẫn nại uống trà chơi cờ với hắn”.
Những lời này của ta rất hợp tình hợp lý, đây chính là cái đạo chung sống giữa vợ chồng xưa nay, hai mắt Dạ Hoa tối sầm lại. Hắn im lặng hồi lâu, ta không hiểu sao hắn lại như vậy, cũng không tiện quấy rầy, chỉ nhìn lên đỉnh giường, nhớ đến cấm chế ở cửa động Viêm Hoa cũng cần phải thay rồi.
Hắn đột nhiên rúc đầu vào hõm vai ta, buồn bã nói: “Ta chưa bao giờ làm cơm cho người khác ăn, ta chỉ làm cơm cho mình nàng ăn”.
Ta bấu móng tay vào lưng hắn, gật đầu nói: “Tài nghệ nấu nướng của ngươi rất đỉnh, lúc nào rảnh đến nấu cho cha mẹ ngươi ăn, để thể hiện chữ “hiếu” đi”.
Hắn không thèm để ý, lại nói: “Ta làm những điều đó không phải vì ta và nàng có hôn ước. Ta đến Thanh Khâu cũng chẳng phải tại A Ly nhớ nàng”.
Ta đã hiểu, bèn nói: “A, nấu nướng hóa ra lại là sở thích của ngươi. Sở thích này đúng là sở thích hay, rất thực dụng đấy”.
Hắn càng ôm ta chặt hơn, nhưng vẫn không thèm để ý đến ta, lại nói: “Thiển Thiển, ta yêu nàng”.
Ta hoang mang giây lát, mở to mắt, kinh ngạc khôn cùng.
Trời sập cũng chẳng làm người ta chấn động như thế này.
Ta cứ tưởng cây nhân duyên của mình là một cây vạn tuế già, có sống đến vạn vạn năm cũng chẳng ra hoa, hôm nay, cây vạn tuế này đột nhiên, đột nhiên nở hoa rồi ư (26)? Hơn nữa lại còn nở một đóa sen tịnh đế(27).
Dạ Hoa ngẩng đầu nhìn ta u uẩn: “Nàng nói sao?”.
Ta vẫn còn kinh ngạc đến mức chưa trấn tĩnh được, thực sự không biết phải nên nói thế nào, trong lúc đắn đo, thở hắt một hơi: “Chuyện, chuyện này không đùa được đâu”.
Hắn bình thản cười nói: “Chưa bao giờ ta chân thành như lúc này, không có tình cảm lâu ngày cũng có thể làm vợ chồng bên nhau, ta lại mong nàng có thể cùng ta tình nồng ý đượm”.
Lời của hắn câu nào cũng khiến người ta kinh hãi. Tuy ta hoảng sợ, chấn động nhưng cũng vẫn còn tỉnh táo. Lúc đầu ta thực sự không ngờ hắn nghĩ như thế. Bây giờ nhớ lại từng chuyện lúc trước, tất cả lần lượt lướt qua đầu ta, ngẫm nghĩ một lát, tâm tư ấy của hắn đúng là thật, đều có thể nhìn ra được điềm báo. Khuôn mặt già nua của ta đỏ bừng, may mà đang hiện nguyên hình, lớp lông hồ ly trên mặt cũng không để lộ sự ngại ngùng của ta.
Nhưng có trời xanh chứng giám, so với hắn, lòng ta hết sức trong sáng, cho dù nghĩ rằng sau này sẽ kết duyên phu phụ, thì cũng là kiểu vợ chồng có tình cảm tri kỷ mà thôi, không hề có mảy may tà niệm.
Dạ Hoa rất biết cách lấy lòng ta, còn ta lại chẳng hề tán thưởng hắn, chẳng qua chỉ là đứng trên cương vị của kẻ trưởng bối mà quan tâm bảo vệ kẻ tiểu bối mà thôi. Nhưng cũng phải nói những ngày tháng bên hắn thực sự cũng hơi, cũng hơi…
Đôi mắt Dạ Hoa nhìn ta, ánh mắt mông lung vời vợi, không nói gì mà chỉ nhìn thẳng, đến mức ta cảm thấy bị dằn vặt.
Ta ngừng lại giây lát, nuốt nước bọt, nói: “Ta nghe mẹ ta nói, khi hai người kết duyên vợ chồng lâu dần những tình cảm phong hoa tuyết nguyệt năm nào sẽ phai nhạt đi, ở cạnh nhau sẽ chỉ giống như những người thân. Bây giờ ta cảm thấy ngươi đã là người thân của ta, chúng ta thực sự cùng lắm có thể bước qua vạch giữa này, ngươi thấy thế nào?”.
Năm đó chịu vết thương lòng do Ly Kính gây nên, vết thương nay đã lành, nhưng sẹo vẫn còn đó, luôn khiến ta cảm thấy tình yêu nếu chẳng gặp đúng người thì thật tệ hại biết bao. Nếu như ta có thể trẻ lại bốn vạn tuổi, thì chơi đùa một chút cũng chẳng sao, cho dù bị tổn thương vài lần, nói một tiếng tuổi trẻ ngông cuồng là xong. Nhưng giờ tuổi tác đã cao, ta chẳng còn hứng thú gì với ái tình cả. Nhưng Dạ Hoa tuổi còn trẻ, còn ta chỉ muốn sống những ngày tháng thanh tịnh vô vi, nếu làm liên lụy đến hắn thì thực là không phải.
Những lời vừa nãy ta đã nói hết, Dạ Hoa lặng im không đáp, ta thấy mình cũng thật bạo dạn. Lại xét kỹ một lượt, ta thương lượng với hắn: Ngươi thực sự cũng nên yêu nên hận những người cùng độ tuổi. Nhân giờ đây nghiệt căn còn chưa bén rễ đâm chồi, mau mau nhổ nó lên. Đợi đến khi ngươi bằng tuổi ta thì ngươi sẽ hiểu, sống lâu như vậy trên đời, người ta sẽ thờ ơ với tình yêu, chẳng còn chút hứng thú nào nữa. Đây chính là cảnh giới chỗ cao chẳng chịu nổi lạnh giá (28). A, đạo thánh chỉ đó của Thiên Quân đem ghép ta và ngươi làm một đôi, kỳ thực ta luôn cảm thấy không phải với ngươi. Nhưng ngươi cũng không cần quá đau lòng, đợi sau khi ta và ngươi thành hôn, sẽ có thể lấy cho ngươi mấy thứ phi xinh đẹp trẻ trung”.
Nói xong ta cảm thấy như trút được tảng đá trong lòng. Tâm trạng của ta bây giờ bình thản biết bao.
Có lẽ ta là chính phi rộng lượng nhất bốn bể tám cõi này, còn nếu Dạ Hoa lấy ta thì xét về mặt tuổi tác hắn đã chịu thiệt thòi.
Hắn lại không hề vui mừng như ta tưởng, thần sắc nhợt nhạt, trừng mắt nhìn ta, nói: “Đây là những lời thật lòng của nàng sao?”.
Vẻ mặt ta hết sức thành khẩn: “Đúng, còn thật hơn vàng thật”.
Ta cứ tưởng hắn sẽ đòi ta bảo đảm về chuyện nạp thứ phi, ai ngờ được sau câu nói của ta, hắn mím môi càng chặt hơn, ánh mắt dần dần lạnh nhạt.
Sống đến ngần này tuổi đầu, tính cách con người ta sẽ đằm lại, nhưng chuyện tình cảm cũng là chuyện không nên để lằng nhằng dây dưa. Ta tiếp tục chân thành nói: “Nghìn năm vạn năm ta cũng sẽ nói câu này, ta và ngươi vẫn nên giữ mối quan hệ liên hôn thuần khiết một chút. Thực ra, hai vợ chồng mà có tư tình chưa chắc đã là chuyện tốt. Ví dụ như nếu một ngày nào đó, ngươi muốn nạp thêm một người thiếp, thì hẳn sẽ không dễ dàng. Bây giờ tốt nhất là ngươi nên nhìn xa trông rộng một chút. Hầy, hôm nay ngươi không đếm xỉa đến những lời ta nói, nhưng sẽ có một ngày, ngươi yêu mến thần tiên nào đó, muốn cưới nàng ta về Tẩy Ngô cung, thì sẽ hiểu được được ý tốt trong những lời ta vừa nói”.
Hắn im lặng một lúc, rồi chậm rãi nói: “Nàng, cố ý nói vậy để làm khó ta phải không?”.
Tim ta giật thót một cái, hình như hắn đã yêu ta đến mức mê muội, tuy rằng ta có ý tốt nhưng nói những lời này, ngẫm kỹ lại thì có lẽ cũng hơi nóng vội.
Ta lặng im nhìn hắn, không biết phải khuyên giải thế nào, chỉ cảm thấy chuyện này phải từ từ tính toán lâu dài.
Hắn ôm ta vào lòng, nghẹn giọng nói: “Ta chỉ yêu mình nàng, không bao giờ yêu người nào khác”. Ngừng lại rồi lại lẩm bẩm câu gì đó mà ta nghe không rõ.
Ôi, đứa trẻ khiến người ta phát bực, phát rầu này.
Dạ Hoa nói xong những lời khiến đầu ta tê buốt rồi lại biến mất tăm, chỉ có ta là vẫn nằm ườn, kéo bốn góc chăn thật kỹ. Tuy ta bị trọng thương, nhưng cũng không đến nỗi yếu ớt quá, đến nằm cũng chẳng yên, nhưng nhìn thần sắc tê tái của hắn, ta không thể lửa cháy đổ thêm dầu, đành im lặng mà thôi.
Hắn dém xong bốn góc chăn, rồi lại qua bưng bát thuốc để trên ghế, đặt lên bàn, bê cốc rót một cốc trà mát, sau đó bước tới, lưng dựa vào thành giường nói: “A Ly đã đưa về Thiên Cung rồi, nó chỉ hơi kinh sợ một chút, nhưng không lo ngại gì lắm, chỉ cần tĩnh dưỡng mấy hôm. Ta cũng định đưa nàng về Thiên Cung, trong Thượng thanh cảnh của Linh Bảo Thiên Tôn có một dòng suối trời, rất thích hợp cho nàng dưỡng thương”. Rồi hắn lại nhíu mày, nói, “Nhưng tên Tất Phương đó đã sống chết ngăn lại. Có điều, nếu nàng nhận lời thì hắn cũng chẳng có gì để nói. Nàng cứ nằm nghỉ đi, sáng sớm ngày mai chúng ta cùng về Thiên Cung nhé”.
Ta cũng đã được nghe về suối trời của Linh Bảo Thiên Tôn, đúng là rất tốt, thương thế như ta bây giờ, nếu bình thường cần dưỡng thương một tháng, đến ngâm mình trên suối trời, có lẽ chỉ cần hai, ba ngày là đã khỏi hẳn. Nhờ Dạ Hoa, mà ta được lợi lớn, thật vui biết bao.
Nói xong câu ấy, hắn nhắm mắt lại dưỡng thần. Còn ta lại phải đến động Viêm Hoa để thăm Mặc Uyên, đắn đo mãi, mới chậm rãi nói: “Hôm nay, ngươi không phải phê văn thư sao?”.
Hắn hé mắt nhìn: “Hôm nay không có việc gì gấp, nàng vừa nói buồn ngủ, vậy ta cho nàng dựa nhé?”.
Khóe miệng ta giật giật. Dường như chưa bao giờ hắn nhận ra đây chỉ là cái cớ, lại cười một cách hiền hòa hỏi: “Sao thế, lại không buồn ngủ nữa à?”.
Ta bàng hoàng nghiến răng nói: “Buồn ngủ lắm, lắm”.
Dạ Hoa có cái tính “việc hôm nay chớ để ngày mai”, nghĩa là trước đây khi hắn còn nhàn nhã ở Thanh Khâu nhà ta, thì đến nửa thời gian là chui trong thư phòng phê văn thư, bận rộn đến chân chạm đất.
Lần này tuy xảy ra chuyện lớn như thế, quan tiên Ca Quân vẫn không thể cho hắn rảnh rỗi vài ngày, công văn vẫn ào ào trút xuống.
Với số công văn của hai ngày hôm qua và hôm nay, Dạ Hoa “ngoan ngoãn”, số khổ chắc chắn là đêm nay không thể ngủ ngon rồi.
Ta ngẫm nghĩ, bây giờ hắn nằm tựa trên giường ta chắc không phải muốn ta khó xử, mà là cũng muốn nghỉ ngơi dưỡng thần thôi. Giống như ở cõi phàm có kẻ mắc tội bị chặt đầu, trước khi chặt đầu cũng cần ăn một bữa cơm, no cái bụng rồi mới bước lên đoạn đầu đài. Hẳn là Dạ Hoa cần ngủ một giấc, tinh thần sung mãn rồi mới bước tới thư phòng để đối phó với công văn của hai ngày qua. Giấc ngủ này của hắn, theo như kinh nghiệm của bản thượng thần ta suy đoán, thì cùng lắm chỉ hai tuần trà mà thôi.
Thế nên ta cũng nhắm mắt đối phó, trong lòng đã có dự tính tỉ mỉ, đợi hắn đi rồi, ta sẽ hóa thành hình người rồi đến động Viêm Hoa.
Chẳng ngờ dự tính này của ta lại không thành. Tinh thần không sung mãn thực chẳng có tác dụng gì, cũng chưa đầy nửa tuần trà, thì người đã mơ màng ngủ thiếp đi mất.
Trong lúc nửa tỉnh nửa mơ, ta đã mơ một giấc.
Giấc mơ này đã mấy vạn năm nay ta không mơ nổi, vậy mà trong ngày hôm nay công đức đã viên mãn.
Ta mơ thấy Mặc Uyên.
Chú thích:
24. Lính chạy cờ: chỉ vai diễn quân lính cầm cờ chạy trong các vở kịch, có nghĩa chỉ sự thêm thắt không có ý nghĩa (ND).
25. Tất Phương điểu: Chim Tất Phương là thần thú trong truyền thuyết, sử dụng lửa (ND).
26. Thành ngữ Trung Quốc có câu “Vạn tuế ra hoa” để chỉ những việc cực kỳ hiếm hoi (ND).
27. Sen tịnh đế hay còn gọi là sen liền đài, tượng trưng cho ân ái vợ chồng (ND).
28. Chỗ cao chẳng chịu nổi lạnh giá: Ý nói người quyền cao chức trọng không có bạn bè thân thiết. Nói cách khác, đứng ở chỗ cao không chịu được gió lạnh ở đó. Lại ví như một người có tài nghệ hoặc tu vi đạt đến cảnh giới thượng thừa. Cảnh giới càng cao, những người làm bạn càng ít, càng cảm thấy cô đơn và lạnh lẽo (ND).
---------------------------------
Chương 14: Nàng cũng từng tràn trề sắc xuân
Mấy ngàn năm đầu sau khi Mặc Uyên về cõi tiên, ta khổ sở đợi chờ, ngày ngày đều mong ngóng sẽ nằm mơ thấy người, để hỏi người một câu rốt cuộc bao giờ người quay lại. Mỗi lần đêm xuống, chìm vào giấc mộng, ta đều nhẩm câu hỏi này năm, sáu lượt, mấy chữ thuộc lòng như cháo chảy, chỉ sợ lúc nằm mơ thấy Mặc Uyên, sẽ kích động quá mà quên mất. Nhưng vì mộng chẳng thành, sau này ta cũng dần quên tâm tư ấy. Nhưng cuối cùng nền tảng của quá khứ thật quá kiên cố, giấc mộng này, ta vẫn nhớ lôi cái câu hỏi cũ rích ấy ra.
Bản thượng thần quả bội phục sự anh minh của mình.
Giấc mộng bắt đầu, cảnh mở đầu chính là cảnh tượng Chiết Nhan dẫn ta lên núi Côn Luân bái sư.
Vì mẹ ta sinh được bốn người con trai, khó khăn lắm mới sinh hạ được một mụn gái, hơn nữa mụn con gái này đã mang tật ngay từ khi còn là bào thai, khi ta sinh ra thể chất yếu ớt, cả động Hồ Ly đều lo lắng cho ta. Bốn ca ca đều được nuôi dạy khá thoải mái, còn ta thì khác, ăn uống ngủ nghỉ đều vô cùng nghiêm ngặt, ngoài động Hồ Ly ra, không được phép đi đâu ngoài Thanh Khâu và rừng đào mười dặm của Chiết Nhan. Vất vả suốt hai vạn năm, ta đã được nuôi dạy khỏe mạnh, nhưng họ vẫn chưa an tâm.
Khi ta hai vạn tuổi, cha mẹ vì một số chuyện mà không thường xuyên ở Thanh Khâu, bèn bảo tứ ca đến trông nom ta.
Cần phải biết rằng tứ ca rất giỏi giữ sĩ diện, bề ngoài vờ vịt ngoan ngoãn vâng lời, mà sau lưng thì chuyên gây thị phi.
Ta vô cùng ngưỡng mộ tứ ca.
Ngự lệnh của cha ta vừa ban xuống, tứ ca nhấm nhấm ngọn cỏ, ngồi trước động Hồ Ly, nhìn ta hiền từ hỏi: “Từ bây giờ trở đi, tứ ca sẽ chăm nom muội. Trứng chim lấy được trên cây, ta một quả, muội một quả; cá câu ở dưới hồ, ta một con, muội cũng một con”.
Ta vỗ tay tán thưởng tứ ca.
Khi ấy, Chiết Nhan đã rất quan tâm tới tứ ca, chỉ cần lôi danh hiệu của lão ra, thì họa lớn đến đâu có thể sóng yên bể lặng hết. Thế nên suốt ba vạn năm liền, tứ ca dẫn theo ta “chọc trời khuấy nước mặc dầu, dọc ngang nào biết trên đầu có ai”.
Đến khi cha mẹ ta có thời gian rảnh rỗi nghĩ tới chuyện dạy dỗ đứa con gái độc nhất thì cảm thấy đã sinh con gái thì nên dạy nó sao cho thùy mị, dịu dàng, nho nhã đoan trang, nhưng lúc ấy ta đã bị tứ ca làm hư rồi.
Cũng may trong năm vạn năm cùng tứ ca rong chơi ở Thanh Khâu, huynh muội ta đã gây ra không ít việc vặt nhưng lại chẳng gây ra họa lớn, ngày tháng trôi qua hết sức an vui, tính cách của hai người bọn ta khó tránh có chút ngây thơ, kiêu ngạo, hoàn toàn không thể bì được với khí độ bây giờ của Dạ Hoa.
Bản thượng thần luôn lo lắng, Dạ Hoa bây giờ mới chưa quá năm vạn tuổi, cho dù không phải ngây thơ, cũng ít nhiều phải có dáng vẻ hoạt bát. Vậy mà hắn lại trầm mặc thế kia, trên con đường đời hắn đã chịu không ít giày vò, trải qua biết bao cú sốc, kinh qua biết bao dâu bể!
Nói lại khi ta năm vạn tuổi.
Khi ấy, mẹ ta thấy ta như vậy thì rầu rĩ lắm. Trước là lo ta không lấy được chồng, đóng cửa động Hồ Ly suy nghĩ mất nửa tháng trời, sau đến một ngày hoàng đạo, ông trời mở mắt, để mẹ ta ngộ ra tuy tính cách ta chẳng ra sao nhưng dáng vẻ cũng không đến nỗi nào, dù sao cũng không nên gả đi, mới vợi bớt lo âu.
Nhưng không lâu sau lại nghe được một tin đồn từ chỗ Mê Cốc, nói rằng trong một thủy phủ ở dưới chân núi liền kề, có nhà họ Chúc Âm (30) mới gả con gái đi. Tiểu Chúc Âm vì thuở nhỏ mồ côi mẹ, không có ai dạy dỗ, nên tính cách có hơi yếu đuối, sợ khổ sợ mệt, khiến cho mẹ chồng ghét, ngày ngày đều kiếm cớ để mắng mỏ nàng ta. Tiểu Chúc Âm không nhẫn nhịn được mới gả được đi được chưa đầy ba tháng đã khóc lóc ầm ĩ trở về nhà mẹ đẻ.
Nghe nói Tiểu Chúc Âm vì là dâu mới bị bắt nạt, lại nhìn thấy dáng vẻ của ta, mẹ ta lại càng buồn bực lo lắng hơn. Bà cảm thấy với tính cách của ta, dù có gả đi được, thì cũng sẽ một ngày bị mẹ chồng đánh cho ba trận. Nghĩ tới sau này ta có thể phải chịu khổ, hễ nhìn thấy ta là mẹ ta lại rớt nước mắt.
Có một lần, Chiết Nhan đến động Hồ Ly chơi, đúng lúc mẹ ta đang âm thầm lau nước mắt, bèn hỏi duyên cớ làm sao, trầm ngâm giây lát mới than rằng: “A đầu này đã lớn như vậy, tính cách cũng không thay đổi được. Bây giờ chỉ có thể cho nó học hỏi chút bản lĩnh, sau này về nhà chồng, trên là tộc trưởng quản lý mọi việc trong tộc, dưới là tiểu đồng quét dọn, không có kẻ nào giỏi hơn nó, thì dù nó có ngây thơ kiêu ngạo, cũng sẽ không bị ấm ức”.
Mẹ ta nghe xong những lời ấy, cảm thấy có lý bèn đồng tình, vỗ đùi một cái, sự việc đã được quyết định như thế.
Xưa nay mẹ ta luôn là người mạnh mẽ, cảm thấy đã thành tâm thành ý tìm cho ta một vị sư phụ để học hỏi thì sẽ phải tìm một sư phụ giỏi nhất trong bốn bể tám cõi mới không uổng phí tâm tư này của người.
Đắn đo hơn nửa tháng trời cuối cùng đã chọn thượng thần Mặc Uyên, cai quản âm nhạc và chiến tranh sống trên núi Côn Luân.
Trước đó ta chưa bao giờ gặp Mặc Uyên nhưng tên tuổi của người thì lại quá quen thuộc.
Khi ta và tứ ca chào đời, chiến sự trong bốn bể tám cõi đã không còn liên miên, thi thoảng mới diễn ra một trận, mà có thì cũng chỉ là những trận chiến nho nhỏ, người bề trên chẳng cần lộ diện. Các trưởng bối có lúc cũng kể lại những trận chiến lớn thực sự từ lúc phân chia âm dương, lưỡng nghi, ví dụ như tám cõi nổi giận ra sao, chín châu nhuộm máu thế nào, đám đàn ông đã ngoan cường cứng cỏi, da ngựa bọc thây ra sao, rồi lập công lập nghiệp thế nào, nói đến mức ta và tứ ca đều đau cả đầu.
Khi ấy, trong Thần tộc còn lưu truyền rất nhiều điển tịch ghi chép về những chiến sự thời viễn cổ, hai huynh muội ta rất hiếu học, thường xuyên đến mượn đám tiên hữu quen thuộc về đọc. Hoặc tự mình cũng có đôi bản sách quý, trao đổi với họ.
Trong những điển tịch này, đâu đâu cũng bắt gặp bóng dáng của Mặc Uyên. Đám thiên quan viết sách đều khen tư thế của người uy vũ, trên người mặc khôi giáp Huyền Tinh, tay cầm kiếm Hiên Viên, nào là chiến thần bất bại.
Ta và tứ ca ngưỡng mộ người khôn xiết, thầm tưởng tượng dáng vẻ oai phong của người trông như thế nào.
Ngưỡng mộ chân thành, thảo luận hơn một năm, chúng ta cảm thấy vị thượng thần Mặc Uyên này hẳn phải có bốn cái đầu, mỗi cái đầu trông về một hướng, con ngươi tròn xoe như gương đồng, tai to như quạt cỏ bồ, trán vuông, miệng rộng, vai tay lưng đều rộng, dày như núi đá, hai chân hai cánh tay đều thô ráp như đá tảng, thổi một hơi là dậy cơn cuồng phong, giậm một chân là đất rung chuyển. Chúng ta suy nghĩ trăn trở, cho rằng phải như thế mới có thể thể hiện sự nhanh nhạy hơn người, thông minh mẫn tiệp, tráng kiện bền bỉ của một cao nhân đệ nhất. Phác thảo xong tư thế oai nghiêm của Mặc Uyên, ta cùng tứ ca phấn chấn chạy đến tìm nhị ca vẽ tranh rất đẹp, xin huynh ấy vẽ cho chúng ta hai bức tranh, treo trong nhà để ngày ngày ngắm nghía.
Vì thế nên vừa nghe nói sẽ bái Mặc Uyên làm thầy, ta đã không kìm được kích động. Tứ ca cũng muốn đi cùng ta, nhưng lại bị Chiết Nhan ngăn lại, thành ra giận dữ mất mấy ngày.
Chiết Nhan dẫn ta cưỡi một đám mây lành trong hai canh giờ, cuối cùng đến một ngọn núi tiên rất thâm u. Ngọn núi này hoàn toàn khác với Thanh Khâu, cũng khác với rừng đào mười dặm, ta cảm thấy vô cùng mới mẻ.
Có hai tiểu tiên đồng đã đứng trước cửa núi chờ, dẫn bọn ta vào trong một đại sảnh rộng rãi. Trong đại sảnh có một nam tử mặc áo bào đen ngồi sẵn đó, lấy tay chống cằm, dựa đầu vào vai, thần sắc lạnh nhạt, khuôn mặt hơi hơi ẻo lả.
Ta thực sự không biết nữ tính là thế nào, chỉ nghe tứ ca nói qua loa, gương mặt tuấn tú của Chiết Nhan kia là đẹp, nếu không bằng Chiết Nhan thì diện mạo tầm thường, nếu đẹp hơn Chiết Nhan thì chính là ẻo lả. Câu nói chẳng ra sao này của tứ ca ta luôn ghi nhớ trong lòng.
Vì ta được tứ ca nuôi dạy từ bé nên luôn nghe lời huynh ấy, đến huynh ấy nói bức tranh mà chúng ta cùng tưởng tượng ra đang được treo trong phòng kia là một vẻ đẹp tuấn tú không gì lý giải nổi, ta cũng vẫn tin theo mà không nghi ngờ, luôn âm thầm cố gắng để trở thành như thế.
Cho nên, khi Chiết Nhan dẫn ta đến núi Côn Luân, cất tiếng chào hỏi với vị thư sinh mặc áo bào đen này: “Mặc Uyên, bảy nghìn năm nay chẳng thay đổi gì”. Ta đã bị sốc nặng. Đôi mắt vừa dài vừa nhỏ của người có thể nhìn khắp thiên lý sao? Đôi tai mảnh dẻ của người có thể nghe thấu tám hướng? Đôi môi mỏng của người có thể phát âm thanh lí nhí như muỗi kêu có thể khiến người ta phải lắng nghe sao? Thân hình gày gò của người có thể nhấc nổi kiếm Hiên Viên – đứng hàng thứ hai trong thần khí của tám cõi sao?
Ta cảm thấy những công lao sự nghiệp to lớn ghi chép trong điển tịch đều là lừa gạt cả, cảm giác niềm tin sụp đổ ập tới, ta nắm tay Chiết Nhan mà đau lòng vô hạn.
Khi Chiết Nhan giao ta cho Mặc Uyên, còn ân cần dặn dò một lượt mấy lời nhảm nhí, như: “Đứa trẻ này không cha không mẹ, ta thấy nó bị vứt trong khe núi nên nhặt về, chỉ còn thoi thóp thở, dáng vẻ tiều tụy nhếch nhác, sau khi tắm rửa mới nhận ra là một con bạch hồ ly”. Ví dụ như: “Ta nuôi nó đã năm vạn năm, nhưng gần đây nó càng lớn càng đẹp, người ấy nhà ta có hơi ghen”. Lại như: “Ta đưa nó tới chỗ ngươi là chuyện chẳng đành, đứa trẻ này đã rất khổ, ta luôn yêu chiều nó, tính tình khôn ngoan, nên cũng phiền ngươi ưu ái nó”.
Ta cảm thấy mấy câu nói nhảm này của Chiết Nhan thật chả ra sao, quá đau lòng nên cũng buồn rầu. Mặc Uyên luôn lặng lẽ chỉ ngồi nghe mà không nói gì.
Mặc Uyên đã nhận ta làm đồ đệ, Chiết Nhan coi như đã “đại công cáo thành”. Sau khi lão thành công lui gót, ta tiễn lão đi một đoạn. Khi đến cửa núi, Chiết Nhan dặn dò cẩn thận: “Tuy bây giờ ngươi là thân nam giới, nhưng lúc tắm giặt cũng không được ở cùng các sư huynh ngươi, không thể để chúng lợi dụng, vẫn phải biết cách giữ gìn như một cô nương”. Ta gật đầu đồng ý.
Mặc Uyên quả nhiên là chăm sóc ta rất chu đáo, nhưng ta coi thường người trông thiếu anh dũng, nên không thèm nhận ân tình của người.
Với Mặc Uyên, ta luôn có một chút không cung kính, cho đến khi vấp váp lần đầu tiên trên con đường đời, gặp phải chuyện tổn thương ghê gớm đến bản thân.
Chuyện này, cũng từ rượu của Chiết Nhan mà ra.
Chiết Nhan giỏi cất rượu, lại rất yêu chiều tứ ca, rượu ủ ra đều do tứ ca đem đi, tứ ca luôn chăm sóc ta, ta được thơm lây huynh ấy ở điểm này, nên rất năng qua lại hầm rượu ở rừng đào mười dặm, dần dần đâm ra hơi thích rượu. Vì ta uống quá nhiều rượu của Chiết Nhan, trong lòng cũng hơi đắc ý, gặp tiệc lớn tiệc nhỏ cũng đều thay lão khen ngợi vài tiếng trước đám tiên hữu. Thành thật mà nói lúc đó kỹ thuật nấu rượu của Chiết Nhan đã rất phi phàm, nhưng rốt cuộc vẫn còn có thể tiến bộ nữa, nhưng ta tuổi nhỏ khờ khạo, luôn khoa trương, có ba phần thì nói bốc lên năm phần, có năm phần thì nói bốc lên mười phần, cho nên ở yến tiệc có khen rằng rượu của lão là độc nhất vô nhị, đương nhiên khiến cho mấy người ham rượu nghe không lọt lỗ tai, phải lôi rượu nhà khác ra để hạ Chiết Nhan xuống, bẻ gãy nhuệ khí của ta.
Trên núi Côn Luân có một người như thế, Thập lục sư huynh của ta Tử Lan. Bây giờ ta vẫn còn cảm thấy Tử Lan hơi nhỏ mọn, những sư huynh khác khi nghe ta tán thưởng Chiết Nhan đều chỉ cười trừ mà thôi, mặc dù cũng có ý kiến này kia, nhưng nể ta là sư đệ nhỏ nhất, nên đều bỏ qua cho ta. Tử Lan thì lại không thế, thường xuyên ngoác miệng ra, hừ mũi cực kỳ khinh mạn, nói: “Chậc chậc chậc, được uống thử rượu của sư phụ nấu chưa?”. Sư phụ mà huynh ấy nói, đương nhiên là Mặc Uyên.
Khi ấy, ta vẫn hơi coi thường Mặc Uyên, không chịu chấp nhận người khác khen người, thấy bộ dạng tự cho mình là đúng đó của Tử Lan, lửa giận bốc ngùn ngụt, trong lòng thầm quyết, lần sau nhất định nghĩ cách, để cho huynh ấy phải thừa nhận rượu của Mặc Uyên nấu không ngon bằng rượu của Chiết Nhan trước mặt tất cả các sư huynh, Mặc Uyên không sánh được, Mặc Uyên còn lâu mới bằng.
Cách mà ta nghĩ lúc đó là một cách hết sức ngô nghê, chẳng qua là đến hầm rượu của núi Côn Luân lấy trộm một bình rượu do Mặc Uyên nấu, đưa cho Chiết Nhan tham khảo, làm ra một bình còn ngon hơn gấp trăm gấp ngàn lần. Cuối cùng là trộm được, nhưng không dám đi qua cửa chính, định từ rừng đào sau núi đi vòng, vòng xuống núi rồi cưỡi mây đi đến phủ của Chiết Nhan. Lúc vòng vèo đến rừng đào, chẳng may bị lạc đường, vất vả cả nửa ngày mà không đem được rượu đi, miệng thì khát, trên người lại chỉ mang độc một bình rượu của Mặc Uyên, thế là ta lấy ra giải khát.
Vừa nhấp một ngụm ta đã hơi bàng hoàng. Chỉ một ngụm nhỏ mà thôi, mùi rượu đã tràn khoang miệng, vị cay dịu xộc đến cuống họng. Tài nghệ của Chiết Nhan, phải nâng cao một chút nữa, thì mới chạm được đến hỏa hầu này.
Mặc Uyên quả nhiên có bản lĩnh đệ nhất này! Một bạch diện thư sinh sao lại có được bản lĩnh đệ nhất này?
Ta vô cùng bi phẫn, uất ức dâng tràn, rượu trong tay cho dù có mang đến cho Chiết Nhan cũng chẳng để làm gì. Ta đau buồn một lúc, rồi dứt khoát uống tì tì hết sạch bình rượu.
Đâu biết rằng loại rượu này mới đầu uống êm dịu, nhưng về sau say đến không ngờ. Ta hoa mày chóng mặt dựa vào gốc đào, chẳng bao lâu sau thì ngủ thiếp đi mất.
Khi tỉnh lại, thì có chút khác biệt với hôm qua, không phải tự nhiên mà tỉnh, cũng không phải bị mấy tiếng thúc giục cằn nhằn của đại sư huynh gọi dậy, mà là bị hắt một chậu nước lạnh, giật mình tỉnh dậy.
Người hắt nước có lẽ cũng có kinh nghiệm, phương hướng và lực đạo đều rất chuẩn, chỉ cần một chậu nước, đã khiến ta tỉnh táo trở lại. Khi ấy là ngày tuyết tan của đầu xuân, chậu nước đó hẳn là chậu nước tuyết tan ra, áo xiêm thấm đẫm dính trên người, chỉ trong thời gian uống một chén trà mà khiến ta hắt hơi một cái dữ dội.
Một cô gái bưng chén trà đứng bên cạnh chiếc ghế bằng gỗ đen, nàng chỉ uống một ngụm trà rồi bỏ chén xuống, thong thả chậm rãi lạnh lùng nhìn ta. Hai thị nữ đứng hầu bên nàng ta, trên đầu còn chải tóc hình quả bí. Ngày ta bái sư nhập môn, đã được đại sư huynh dặn dò, bảo ta chớ có dây vào mấy thiếu nữ búi tóc hình quả bí, cho dù đối phương thất lễ trước, thân là đệ tử của núi Côn Luân, cũng phải nhường ba, bốn phân. Vì những nữ tử búi tóc hình quả bí kia thường xuyên tới núi Côn Luân chơi, thì chắc chắn là tỳ nữ của thượng thần Dao Quang. Thượng thần Dao Quang là nữ thần dịu dàng thời bình, hung mãnh thời chiến, luôn si mê thượng thần Mặc Uyên, sư phụ của chúng ta, gần đây còn yêu đơn phương dữ dội hơn, dứt khoát dời nhà đến gần núi Côn Luân, cách mấy ngày lại sai tỳ nữ đến núi Côn Luân khiêu khích kiếm chuyện, muốn khích Mặc Uyên đánh với nàng ta một trận, xem xem bản lĩnh của nàng, phải hàng phục bám váy nàng, vĩnh viễn cùng nàng kết đôi. Mưu tính của nàng ta không tồi, nhưng dường như Mặc Uyên lại không coi đó là chuyện lớn, chỉ dặn dò đệ tử phải coi người tới là khách, có thể chiều chuộng gì thì chiều chuộng hơn một chút.
Mấy thị nữ tóc quả bí trước mắt nhắc nhở ta, khiến ta nhận ra thân phận họ trong giây lát, người ngồi trên ghế uống trà kia, chính là thượng thần Dao Quang yêu đơn phương Mặc Uyên.
Nàng ta nhân lúc ta say túy lúy mà trói bắt ta về đây, chắc là muốn thỏa tâm nguyện, khích cho Mặc Uyên đánh với mình một trận, biết đâu trong trận này Mặc Uyên nảy sinh tình cảm với nàng ta, kế đó chàng đoán thiếp thiếp đoán chàng, kế đó chàng hữu tình thiếp hữu ý, kế đó cầm sắt hài hòa song túc song phi.
Nhưng lại liên lụy đến ta thành hòn đá lót đường, ta cảm thấy mình vô tội biết bao, oan ức biết bao.
Một thị nữ đứng bên phải ho một tiếng, nhận cái nhìn của chủ nàng ta lập tức làm bộ dáng vẻ dạy dỗ người khác, nói: “Núi Côn Luân là nơi thánh địa thanh khiết bậc nhất trong bốn bể tám cõi, con hồ ly đực yêu mị như ngươi lại dám trà trộn vào để dụ dỗ thượng thần Mặc Uyên sao?”.
Ta ngớ ra, rồi “a” một tiếng.
Nàng ta trừng mắt nhìn ta rồi nói tiếp: “Ngươi nhìn ngươi xem, mắt, mày, miệng, đều là vẻ yêu mị! Từ lúc thu nhận ngươi làm đệ tử, thượng thần Mặc Uyên lúc nào cũng yêu thương bảo vệ”. Sắc mặt thượng thần Dao Quang không tốt lắm, thị nữ đó lập tức sửa, “Bèn bỏ bê tiên đạo, thượng thần nhà ta niệm tình tiên liêu, không nỡ giương mắt nhìn thượng thần Mặc Uyên đi vào con đường sai lầm, không thể không giúp đỡ”. Nàng ta nói chậm lại, “Tuy rằng ngươi phạm phải sai lầm lớn như vậy, nhưng thượng thần nhà ta nổi tiếng từ bi, nên cho ngươi làm đồng tử của thượng thần nhà ta, chuyên tâm tu hành, cũng là sửa đổi bản tính ngoan cố của ngươi, còn không mau mau quỳ xuống cảm tạ ân tình của thượng thần nhà ta”.
Ta ngây người ra nhìn bọn họ, hoàn toàn không hiểu họ đang diễn trò gì. Nghĩ mãi lại cảm thấy từ khi mình đến núi Côn Luân, ngoài việc lấy trộm rượu khỏi hầm ra, thì chưa từng làm gì trái quy củ, nếu có thì có chăng chỉ là lúc ban đầu nhờ cậy quan hệ để được bái sư môn mà thôi.
Ta rất phẫn nộ, bực bội quát: “Ta chẳng làm gì sai với sư phụ, sư phụ đối tốt với ta cũng vì có cố nhân nhờ cậy, thương xót ta thân thế thê thảm. Ngươi bắt ta đến đây, còn hắt nước vào ta, chỉ một ngón tay sư phụ ta cũng còn hơn các ngươi trăm lần ngàn lần, ta quyết không làm đồng tử dưới trướng của ngươi”.
Thượng thần Dao Quang đập bàn một cái, tức giận thét lên: “Ngoan cố, ngu tối như thế, tống nó vào thủy lao, giam ba ngày”.
Bây giờ ngẫm lại, khi đó Dao Quang đang bị đố kỵ che mờ mắt, tuy rằng là hiểu lầm, còn ta tuổi trẻ bồng bột không biết ăn nói, lại đem một hiểu lầm có thể tháo gỡ làm thành một nút chết, sau này phải nếm khổ hai ngày kể ra cũng đáng.
Thủy lao trong phủ của thượng thần Dao Quang, thú vị hơn nhiều những thủy lao bình thường khác. Lúc đầu chỉ là nước ngập đến eo, cho một người sống vào đó, nước sẽ từ từ dâng từ eo lên, dần dần dâng lên, nhưng không bị ngập đầu. Tuy rằng không ngập đầu, không khiến bạn chết ngạt, nhưng luôn khiến bạn phải khổ sở vì bị ngừng thở. Nếu luôn ngừng thở như thế, thì cần nhịn thở là quen, nhưng nhịn được nửa canh giờ, nước lại dần dần rút lui, để bạn hít thở một hơi, rồi lại bắt đầu lại từ đầu.
Vì ta rong chơi đã bao năm, nếu có đem hết sức ra thì cũng không địch nổi một thượng thần, không thể phản kháng, chỉ có chờ chết.
Lúc Mặc Uyên đến, ta đã bị giày vò đến nỗi chỉ còn nửa cái mạng.
Cho dù là chỉ còn nửa cái mạng thì chung quy vẫn là một thiếu niên sức sống tràn trề, trong mơ hồ vẫn còn nhớ Mặc Uyên sầm mặt một tay vung lên mở chiếc khóa đen trên cửa nhà lao, vớt ta từ dưới nước lên giữa ánh lửa bập bùng, lấy áo bào bọc kín ta vào lòng, lạnh lùng nói với Dao Quang khuôn mặt đang trắng bệch, nói: “Mười bảy tháng hai, trên đỉnh Thương Ngô, món nợ này chúng ta phải tính sạch”.
Dao Quang rầu rĩ nói: “Thiếp rất muốn thử sức với chàng một trận, nhưng không phải trong tình cảnh này, cũng không phải…”.
Ta còn chưa nghe thấy nàng ta nói hết câu thì đã được Mặc Uyên sải bước đưa đi. Ra đến cổng gặp đại sư huynh, huynh ấy đưa tay đón ta, nhưng sư phụ không đưa, rồi cứ như thế mà đi.
Khi ấy, lần đầu tiên ta cảm thấy, cho dù Mặc Uyên không nói những lời kinh thiên động địa, thì giọng nói cũng sáng rõ trầm bổng. Cho dù cánh ta không được thô ráp như cột đá, cũng rất mạnh mẽ kiên cường. Mặc Uyên không còn là một bạch diện thư sinh.
Vừa về tới núi Côn Luân, ta đã ngủ mê mệt, khi tỉnh lại nghe đại sư huynh nói, Mặc Uyên đã đến núi Thương Ngô quyết đấu với thượng thần Dao Quang. Vì đây là cảnh tượng bảy vạn năm nay mới có một lần, từ nhị sư huynh đến thập lục sư huynh đều lén trốn đi xem. Đại sư huynh nhìn ta đầy tiếc nuối: “Đệ nói xem sao sư phụ lại sai huynh đến chăm sóc đệ?”. Không thể xem trận chiến giữa Mặc Uyên và Dao Quang, ta cũng rất nuối tiếc, nhưng để đại sư huynh không cảm thấy nuối tiếc nhiều như thế, chỉ có cách nhận ân tình cười ngốc nghếch hì hì hai tiếng.
Đại sư huynh đúng là nói không ngừng, nghe huynh ấy lải nhải mấy ngày liền ta mới hiểu ra chuyện Dao Quang bắt ta, thực ra là tiến hành rất kín kẽ cẩn mật.
Đêm đó đến khi tắt đèn mà ta vẫn chưa về phòng, các sư huynh rất lo lắng, nhất loạt đi tìm ta mà không thấy, càng nghi ngờ ta đã bị tiên tỳ của thượng thần Dao Quang bắt đi mất. Tuy suy đoán như thế nhưng cũng không có gì làm chứng cứ, các sư huynh đều rất lo sợ, bất đắc dĩ đành kinh động đến sư phụ. Sư phụ chuẩn bị đi nghỉ, nghe thấy chuyện chỉ khoác chiếc áo bào, rồi dẫn đại sư huynh đến phủ đệ của thượng thần Dao Quang. Thượng thần Dao Quang thà chết không chịu nhận, sư phụ vung kiếm Hiên Viên, không thèm đếm xỉa đến lễ nghi gì, thẳng đường xông tới, mới tìm thấy ta.
Đại sư huynh “chậc chậc” cảm thán: “Nếu không phải nhờ uy lực của sư phụ, thì Thập thất đệ chắc chẳng còn giữ được cái mạng nữa”. Sau đó lại cười nói, “Đệ vừa về đến Côn Luân là lại ngất đi, nằm mơ còn ôm tay sư phụ rất chặt kêu là khó chịu, kéo thế nào cũng không chịu buông ra, sư phụ thấy chẳng ra sao, đành vỗ vỗ vào lưng đệ an ủi “đừng sợ nữa, có sư phụ bảo vệ đây rồi”, ha ha, bộ dạng của đệ, đúng là chẳng khác gì đứa trẻ con”. Mặt ta đỏ bừng, huynh ấy lại nghi hoặc hỏi, “Rốt cuộc đệ đã đắc tội gì với thượng thần Dao Quang? Nàng ta tuy rằng có hơi xấu tính một chút, nhưng xưa nay cũng chưa từng ra tay tàn độc thế”.
Ta vừa điều dưỡng, vừa cân nhắc trước sau một lượt, định nói với huynh ấy, rằng lần này vị thượng thần đó đã ghen bóng ghen gió, nhưng lại cảm thấy nói xấu sau lưng người khác là không hay, bèn ấp úng nói lấp liếm vài câu.
Lần này ta nằm mơ thấy Mặc Uyên chính là mơ thấy chuyện này. Giấc mơ giống hệt với những gì xảy ra ngày hôm đó. Vốn sau trận chiến trên núi Thương Ngô, buổi chiều hôm đó Mặc Uyên đã quay về Côn Luân, Dao Quang thua trận thảm bại, sau trận chiến này đã chết hẳn mối tình si với Mặc Uyên, dời phủ đệ đi thật xa, thật xa. Nhưng trong giấc mộng của ta, sau trận chiến Thương Ngô ngày mười bảy tháng hai, Mặc Uyên lại không quay về. Ngày ngày ta đều quấn lấy đại sư huynh hỏi, rốt cuộc bao giờ sư phụ quay về, đại sư huynh đều trả lời ta, sắp rồi, sắp rồi.
Cho dù là nằm mơ, ta vẫn phải hỏi câu này, nhưng câu này đã hỏi hơi muộn một chút.
Nhưng ta tin đại sư huynh, huynh ấy nói sắp rồi, sắp rồi, ta cũng cảm giác đúng là sắp rồi, sắp rồi.
Ta đã chờ trong mơ suốt bảy vạn năm, cho dù đợi bảy vạn năm, cũng trong giấc mơ đó, ta luôn ngây ngô tin lời đại sư huynh, tin rằng sư phụ sắp về rồi, sắp rồi. Trái tim ngây thơ và bình yên ấy thực sự không thể so với ngày nay.
Chú thích:
30. Còn gọi là Chúc Long, là một trong sáu thần sáng thế của thời thượng cổ Trung Quốc, là vị thần mình rắn mặt người trong truyền thuyết Trung Quốc. Có ghi chép trong sách Sơn Hải Kinh (ND).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét