Ngày mười lăm tháng tám chơi Tết trung thu, rượu hoa quế trong cung Quảng Hàn cất từ năm ngoái đã xuống men, Thường Nga lệnh cho Ngô Cương ngoài lúc chặt cây ra thì chọn ra mấy vò rượu, tặng mỗi cung thất một vò. Ta đem bình rượu ấm được tặng cho Tẩy Ngô cung, cùng Dạ Hoa uống cạn hai chén, coi như là tiễn biệt chàng xuống hạ giới. Vốn dĩ ta muốn ở bên cạnh chàng, chàng không chịu, bắt ta phải về Thanh Khâu chờ chàng.
Dạ Hoa không cho ta theo chàng, có lẽ sợ rằng khi ở trần gian, ta sẽ bảo vệ chàng mọi lúc mọi nơi, phá giới mà làm phép, sẽ bị phản phệ lại bản thân. Nhưng ta cảm thấy có thể để chàng chịu ít gian khổ, giày vò nhất, thì bị chính pháp thuật của mình phản phệ một đôi lần cũng chẳng sao, nên tính sẽ giả vờ về Thanh Khâu trước, để chàng an tâm, đợi sau khi chàng uống nước Vong Xuyên, đầu thai chuyển thế, rồi ta lại mặt dày đi tìm chàng.
Yêu một người là như thế đó, lúc nào cũng muốn người mình yêu được sống tốt, người mình yêu được sống tốt, thì bản thân cũng vui vẻ. Đây chính là điều kỳ diệu của tình yêu, cho dù chịu tội, chịu khổ, nếu như trong lòng đã có hình bóng một người, thì nỗi khổ sánh ngang trời đấy cũng chỉ là sự giày vò ngọt ngào mà thôi.
Ti Mệnh Tinh Quân lại chỉ cho ta nơi Dạ Hoa đầu thai.
Kiếp này của Dạ Hoa được đầu thai vào một nhà danh gia vọng tộc, đời đời đèn sách ở Giang Nam, thúc bá tổ phụ đều là làm quan cả.
Ti Mệnh vui vẻ hào hứng, tặc lưỡi than, nói xét theo kinh nghiệm nhiều năm viết số mệnh của hắn, đứa con sinh ra trong gia đình này hẳn sẽ nối nghiệp tổ tiên, nhờ ngòi bút có thể hô mưa gọi gió, khuynh đảo thiên hạ, mà xưa nay Dạ Hoa lại rất giỏi văn chương, được đầu sinh thế này vô cùng phù hợp.
Nhưng ta biết rằng phàm các thế gia đại tộc chốn phàm trần trọng nhất là thể thống, dạy dỗ con cháu cực kỳ nghiêm khắc, rất tẻ nhạt. Con cháu họ cũng rất nghiêm khắc, rất tẻ nhạt, không hề hoạt bát đáng yêu giống những đứa trẻ bình thường trong dân gian. Dạ Hoa vốn đã không hoạt bát cho lắm, ta không chỉ mong khi đầu thai chàng có thể hoạt bát hơn, mà còn lo rằng chàng sẽ cô đơn quạnh quẽ suốt thời niên thiếu trong gia đình danh gia này.
Gia tộc Dạ Hoa đầu thai là họ Liễu, đại thiếu gia phu nhân nhà họ hạ sinh chàng là cháu trưởng, đặt tên Liễu Ánh, tự là Chiếu Ca. Ta không thích cái tên này cho lắm, cảm thấy hơi văn vẻ, không hề phù hợp với một Dạ Hoa anh tuấn dũng mãnh chút nào.
Ta trở về Thanh Khâu thu dọn lấy năm bộ xiêm y, gói vào tay nải, rồi lại rót trà mát, nhấp cho ngọt họng, rồi tức tốc chạy đến rừng đào mười dặm của Chiết Nhan, muốn mặt dày đi xin lão ít đan dược.
Nhưng đi đến nửa đường thì nhìn thấy Chiết Nhan đang cưỡi mây bay tới, phía sau còn có tứ ca cưỡi Tất Phương.
Họ dừng lại trước mặt ta.
Hai mắt tứ ca sáng lấp lánh, nói: “Tiểu Ngũ, có lẽ hôm nay muội đã thỏa ước nguyện bao năm. Bọn ta vừa từ Tây Hải trở về, cả đêm qua Điệp Ung vật vã, sáng nay Chiết Nhan dùng truy hồn thuật đi vào hồn y, lại phát hiện hồn Mặc Uyên không còn ở trong nguyên thần của Điệp Ung. Bọn ta định đến động Viêm Hoa xem xem, Mặc Uyên đã ngủ suốt bảy vạn năm, hẳn đã chọn ngày lành là hôm nay để tỉnh dậy”.
Ta thẫn thờ, mãi sau mới sực tỉnh. Lúc tĩnh trí thì thấy cánh tay mình đang lay lay tứ ca, miệng lắp bắp: “Sư, sư phụ tỉnh rồi ư? Người đã tỉnh rồi ư?”.
Tứ ca gật đầu, lại nhíu mày nhắc: “Tay nải của muội rơi khỏi mây rồi kìa”.
Ta biết rằng chưa đầy ba tháng Mặc Uyên sẽ có thể tỉnh lại, bấm ngón tay tính, hôm nay cách ngày Điệp Ung uống viên đan dược đó còn chưa đầy hai tháng, thời gian ngắn như vậy mà người đã có thể tỉnh lại. Người tỉnh lại thật rồi sao?
Bảy vạn năm, trong bốn bể, giữa gầm trời, ta trốn tránh ở Thanh Khâu, tuy rằng không phải trải qua cảnh sinh linh lầm than trời đất đảo điên, nhưng cũng tận mắt chứng kiến đầm Thanh Khâu hạn hán chín trăm chín mươi chín lần, chứng kiến phủ nhà Chúc Âm trên núi Gia Hầu cứ trăm năm lại nhích qua bên động Hồ Ly của cha mẹ ta một trượng. Bảy vạn năm, nửa cuộc đời của ta. Ta dùng nửa đời mình để làm một việc duy nhất đó là ngóng trông sư phụ tỉnh lại. Hôm nay, cuối cùng người đã tỉnh lại rồi.
Chiết Nhan đứng bên cạnh cúi đầu thở dài: “Cũng không uổng công tiểu tử Dạ Hoa trút toàn bộ tu vi”.
Khóe mắt ta cay xè, ta gật gật đầu.
Tứ ca cười nói: “Chuyện của Dạ Hoa huynh đã nghe Chiết Nhan nói, hắn cũng thực si tình. Nhưng số muội cũng không may, vừa mới trả hết nợ Mặc Uyên, thì lại nợ Dạ Hoa, Mặc Uyên muội còn có thể trả người máu tim mình suốt bảy vạn năm, vậy tu vi bốn vạn năm của Dạ Hoa, muội định thế nào?”.
Ta xòe quạt che đôi mắt đang đỏ hoe, cay xè của mình, đáp: “Muội và Dạ Hoa cuối cùng vẫn sẽ kết thành vợ chồng, muội nghĩ rằng vợ chồng yêu thương lẫn nhau, ai nợ ai, thì không cần tính toán”.
Chiết Nhan đứng trên mây cười, nói: “Lúc này ngươi đã ngộ thấu suốt rồi”.
Tất Phương khẽ nói lời chúc mừng, ta cũng cảm ơn hắn một tiếng.
Chiết Nhan và tứ ca đi trước, ta chuyển mây theo sau. Việc của Dạ Hoa tạm hoãn lại, khi ta mới đến núi Côn Luân bái sư học nghệ, cư xử chẳng ra gì, hiếm khi thể hiện đạo hiếu của đệ tử với Mặc Uyên. Sau này hiểu chuyện rồi, lúc biết tận hiếu thì sư phụ đã nằm trong động Viêm Hoa.
Bây giờ Mặc Uyên đã tỉnh, đã cố nén niềm vui trong lòng, muốn ngay lập tức để sư phụ trông thấy, đệ tử nhỏ nhất đã trưởng thành rồi, lớn khôn rồi, biết thương yêu người khác rồi.
Tiểu Thập Thất đã sống rất vui vẻ.
Vì khi làm đệ tử của Mặc Uyên ta là một đệ tử nam, đang định biến lại thành bộ dạng của Tư Âm năm xưa, thì bị Chiết Nhan giơ tay cản lại, nói: “Với tu vi của Mặc Uyên, đã sớm nhận ra ngươi là nữ nhi, chỉ có điều muốn giữ thể diện cho cha mẹ ngươi nên mới không vạch trần, ngươi còn tưởng mình che mắt hắn được suốt hai vạn năm sao?”.
Ta gấp lại chiếc quạt, giả bộ cười cười: “Nói rất phải, pháp thuật của mẹ ta chỉ che được mắt mười sáu sư huynh, còn ta luôn hoài nghi rằng có thể che mắt sư phụ thì cũng hơi hoang đường”.
Ba người chúng ta men theo lưng chừng núi Phong Di, ta xuống mây trước tiên, nguyệt quế giữa núi tỏa hương thơm thanh mát thoang thoảng.
Len giữa hơi thu trong mát của tháng tám, ta đi thẳng một mạch đến động Viêm Hoa.
Giữa mây mù sương khói chờn vờn, cuối động, chính là chiếc giường băng mà Mặc Uyên đã ngủ bao năm.
Trong thời khắc quan trọng này, mắt ta lại hơi hoa lên, ta lấy tay dụi mắt một cái, nước hoen đầy tay.
Trên giường băng thấp thoáng một bóng người đang ngồi.
Ta tiến lên mấy bước.
Người ngồi trên giường băng đó, chính là, chính là sư phụ Mặc Uyên ngủ say bao năm của ta.
Người nghiêng đầu nhìn mấy đóa hoa dại cắm trong chiếc bình bên cạnh. Tư thế, thần thái đó, không hề khác biệt so với bảy vạn năm trước, khiến ta chực rơi lệ.
Bảy vạn năm trước, sư huynh đệ chúng ta luân phiên quét dọn phòng của Mặc Uyên, ta có thói quen cắm ít hoa theo mùa trong bình đặt trong phòng. Ngày ngày Mặc Uyên đều ngắm nghía, rồi cười khen ta như vậy.
Khi ấy, mỗi ngày nhận được nụ cười khen ngợi của người đối với ta, ta đều cảm thấy tự hào.
Ta làm người kinh động, người quay đầu lại, giơ tay chống má, mỉm cười nói: “Tiểu Thập Thất? Quả nhiên là Tiểu Thập Thất. Lại đây sư phụ xem xem, dạo này ngươi tiến bộ ra sao?”.
Ta bấm móng tay vào cổ tay, vừa thở gấp, trống ngực vừa đập thình thình trong lồng ngực, hai mắt ướt nhòe, run run bước tới, hắng giọng gọi một tiếng sư phụ, biết bao cảm xúc đan xen dâng trào, vừa thương cảm vừa vui mừng.
Người giơ tay đỡ ta, nói: “Sao lại sắp khóc thế này, à, bộ váy này đẹp lắm”.
Chiết Nhan rẽ đám mây mù bước tới, theo sau là tứ ca, cười nói: “Ngươi ngủ suốt bảy vạn năm, giờ đã tỉnh rồi”.
Trong động Viêm Hoa rất lạnh, ta hắt hơi mấy cái liền bị tứ ca kéo ra khỏi động. Chiết Chan và Mặc Uyên người trước kẻ sau ra khỏi động.
Năm xưa khi trên Côn Luân, mười sáu sư huynh phía trên ta, ngoài cửu sư huynh Lệnh Vũ là do Mặc Uyên nhặt về, mười lăm sư huynh còn lại đều là con cháu Thiên tộc. Bảy vạn năm trước, sau khi Mặc Uyên mất tích, nghe nói các sư huynh đã tìm ta mấy ngàn năm mà không có kết quả. Sau này từng người từng người bị gia đình gọi về, mỗi người thực hiện một sứ mệnh riêng.
Tứ ca từng âm thầm đến Côn Luân thăm dò một chuyến, sau đó ngậm ngùi nói, Côn Luân đông đúc ngày nào, giờ đây chỉ còn lại một mình Lệnh Vũ và vài tiểu đồng trông giữ, đáng buồn lắm thay.
Ta không biết nếu như Mặc Uyên hỏi ta về Côn Luân, ta sẽ phải trả lời ra sao.
Dọc đường đi về động Hồ Ly ta cứ thắc thỏm bồn chồn không nguôi.
Không ngờ chuyến đầu tiên người đi lại không phải là Côn Luân.
Người ngồi trong động Hồ Ly, Mê Cốc pha một ấm trà bưng lên, ta rót cho mỗi người một tách, nhân lúc ta rót trà, người hỏi Chiết Nhan: “Những năm tay ngủ say, ngươi có gặp một đứa trẻ, có dáng vẻ giống ta không?”.
Bình trà trong tay ta chao đảo, sơ ý rót quá nửa bình lên đầu gối tứ ca.
Tứ ca cắn răng cười với ta một cái, rồi âm thầm gạt nước trên đầu gối đi.
Bao nhiêu năm trong bốn bể tám cõi, ta chỉ gặp một người duy nhất giống hệt Mặc Uyên, ngươi đó chính là phu quân tương lai của ta – Dạ Hoa.
Dạ Hoa có khuôn mặt giống hệt Mặc Uyên, lúc đầu tuy ta có hơi lạ lùng, nhưng cũng chưa bao giờ nghĩ rằng bọn họ có quan hệ gì.
Ta cảm thấy có lẽ đàn ông hoàn mỹ đều có dáng vẻ như vậy, Dạ Hoa rất hoàn mỹ, đương nhiên sẽ có dáng dấp như vậy.
Nhưng nghe Mặc Uyên nói, hai người bọn họ không chỉ có quan hệ, mà lại còn có quan hệ rất mật thiết.
Ta dỏng hai tai lên lắng nghe, Chiết Nhan cười ha ha, mắt liếc ta một cái, nói: “Đương nhiên có một người như thế, tiểu đồ đệ của ngươi còn rất thân với hắn là đằng khác”.
Mặc Uyên nhìn qua phía ta, mặt ta liền đỏ bừng lên. Tình huống này hơi giống với một thiếu nữ tự đính ước với tình lang, chẳng may bị một em gái “môi mỏng” tố giác chuyện trăng gió với cha mẹ, cho nên ta cũng cảm thấy hơi ngượng ngùng.
Chiết Nhan lại liếc mắt nhìn ta ba, bốn lượt đầy ẩn ý. Ta cũng lườm lại lão, đành cố ra vẻ thong thả, nói: “Người mà sư phụ nói tới, hì hì, chính là phu quân tương lai của đồ đệ, hì hì, chính là thái tử bây giờ của Thiên tộc, hì hì hì…”.
Bàn tay cầm tách trà của Mặc Uyên khẽ khựng lại, cúi đầu hắng giọng, lát sau, người mới bình thản nói: “Mắt chọn nương tử của người này, haizz”. Ngẩng đầu lên, người lại hỏi: “Phu quân chưa cưới của ngươi tên gì? Sinh năm nào?”.
Ta thành thực bẩm báo.
Người bấm ngón tay nhẩm tính, lại bình thản nhấp ngụm trà: “Tiểu Thập Thất, đệ đệ song sinh với ta, đã bị ngươi bắt rồi”.
Ta choáng váng: “A?”.
Không chỉ ta mà cả Chiết Nhan và tứ ca cũng đều trợn mắt há mồm, bộ dạng như bị sét đánh trúng vậy.
Mặc Uyên xoay xoay chén trà, nói: “Chẳng trách các ngươi kinh ngạc, đến ta cũng chỉ được biết khi phụ thân lâm chung, năm xưa mẫu thân tuy chỉ sinh ra mình ta, nhưng ta vẫn còn có một đệ đệ song sinh”.
Mặc Uyên nói, chuyện này phải kể từ khi Mẫu thần hoài thai hai huynh đệ.
Nghe nói năm đó, tứ cực đổ, cửu châu lở. Mẫu Thần vì vá bốn cột chống trời, nên đã bị động thai, khi sinh chỉ có thể giữ được đứa lớn, không thể giữ đứa nhỏ, Phụ Thần cảm thấy có lỗi với con trai nhỏ, đành cố lưu lại hồn phách đáng nhẽ đã tiêu tan vào vũ trụ của nó, nuôi trong nguyên thần mình của mình, muốn xem xem có thiên số và cơ duyên, để có thể tạo một tiên thai cho đứa con trai nhỏ, để nó có thể sống lại. Phụ Thần đã dành một nửa pháp lực để tạo ra một tiên thai, nhưng dù làm cách nào vẫn không thể gọi hồn phách của đứa con nhỏ tỉnh lại được. Phụ Thần bèn biến tiên thai đó thành một quả trứng chim vàng sáng lấp lánh, giấu trong núi sau núi Côn Luân, định đợi hồn phách đứa con trai nhỏ tỉnh lại sẽ dùng.
Nhưng thiên mệnh như thế, chẳng đợi được hồn phách đứa con trai nhỏ tỉnh lại, Mẫu Thần Phụ Thần đã cùng nhau về nơi hỗn độn.
Trước khi lâm chung, Phụ Thần có kể chuyện này cho Mặc Uyên nghe, rồi tách hồn phách của đứa con trai nhỏ trong nguyên thần ra, gửi gắm cho Mặc Uyên. Mặc Uyên nhận hồn phách của đệ đệ mình, cũng như Phụ Thần, đem nuôi dưỡng trong nguyên thần của mình. Bãi bể biến nương dâu bao bận, người em song sinh được nuôi trong nguyên thần của Mặc Uyên vẫn chưa hề tỉnh lại.
Mặc Uyên nói: “Có lẽ khi ta dùng nguyên thần tế chuông Đông Hoàng, nó đã tỉnh lại. Bây giờ ta mới có thể trở lại, hẳn lúc ta hồn tan phách tan, nó đã tốn công thu nhặt từng mảnh hồn phách tan tác của ta lại. Ta còn láng máng nhớ, có một đứa trẻ ngồi bên cạnh cơ thể ta vá từng mảnh hồn của ta, vá suốt bảy, tám nghìn năm, vá được một nửa thì bị một đạo kim quang chiếu rọi vào trong động phủ của ta cuốn mất đi. Sau khi nó đi, ta đã có thể tự mình vá hồn, nhưng rất khó khăn, tốc độ cũng hết sức chậm chạp. Giờ nghe các ngươi kể, nó đã là thái tử của Thiên tộc, có lẽ khi ấy vị phu nhân nào đó trên trời dạo chơi Côn Luân, nuốt phải quả trứng mà Phụ Thần chôn năm nào, tiên thai đã cắm rễ trong bụng vị phu nhân đó, mới cuốn nó đi”.
Chiết Nhan cười ha ha, nói: “Chẳng trách ta nghe nói, khi Dạ Hoa chào đời, có bảy mươi hai con chim ngũ sắc bắc cầu suốt tám mươi mốt ngày, ráng đỏ phương đông chiếu rạng suốt ba năm, hóa ra hắn là đệ đệ song sinh của ngươi”.
Khi nãy nghe được tin này ta đã choáng váng sững sờ, thật không ngờ có một ngày lại có thể với cao có quan hệ thân thiết như thế với Mặc Uyên. Bây giờ nghe người kể ngọn nguồn, sau khi bàng hoàng, ta lại cảm thấy cực kỳ trấn tĩnh, thậm chí cảm thấy dáng vẻ của Dạ Hoa như vậy, quả đúng là đệ đệ song sinh của Mặc Uyên.
Trong sử sách trên Cửu Trùng Thiên rõ ràng còn ghi chép, Phụ Thần chỉ có một con trai là Mặc Uyên. Có thể thấy các thần quan chép sử này đều là không đáng tin, tin vào sử sách đó, thì chẳng thà tin vào những câu chuyện mà Ti Mệnh nhàn rỗi thêu dệt nên còn hơn.
Mặc Uyên muốn đi thăm Dạ Hoa, nhưng người vừa mới tỉnh lại, muốn khôi phục như ngày xưa còn phải đóng cửa tu luyện mấy năm. Ta lo lắng cơ thể người chưa được linh hoạt, nếu cứ khăng khăng đi xuống trần gian thì e rằng sẽ bất lợi cho việc tu luyện, nên đành kiếm một cái cớ để lấp liếm, hẹn rằng khi nào người tu luyện xong, sẽ dẫn Dạ Hoa đến gặp người.
Động Viêm Hoa tuy rằng linh khí hội tụ, nhưng quá lạnh lẽo, không thích hợp để Mặc Uyên tu luyện. Người một lòng muốn về động phủ sau núi Côn Luân đóng cửa tu luyện như năm nào, tuy ta không muốn để người thấy cảnh tiêu điều của Côn Luân ngày nay mà đau lòng, nhưng giấy sao gói được lửa, cuối cùng thì người vẫn phải đau lòng mà thôi. Nghĩ rằng đau muộn chẳng bằng đau sớm, sau hai tuần trà, ta cùng Mặc Uyên trở về Côn Luân. Chiết Nhan và tứ ca nhàn tản rỗi rãi, cũng đi theo, còn Tất Phương cũng đi theo nốt.
Năm người chúng ta cưỡi ba đám mây bay về Côn Luân, tứ ca từng nói Côn Luân giờ đây tiêu điều hiu quạnh vô cùng.
Ta cũng thở dài một tiếng.
Từ cửa núi đi xuống có rất nhiều tiển thần tiên, hoặc đứng hoặc quỳ hoặc ngồi, khí xanh khí tím trộn lại, mây mù bốc lên lưng chừng núi, tiên khí cuồn cuộn dâng cao, ai cũng có thể nhận ra đây là một ngọn núi tiên.
Trong hai vạn năm ta học nghệ ở đây, Côn Luân luôn vắng vẻ, chỉ không quá bảy vạn năm, sao lại nhộn nhịp thế này?
Tất Phương chở tứ ca, co móng vuốt đậu xuống, rồi lại khều một tiểu thần tiên trông có vẻ thực thà hỏi thăm.
Tiểu thần tiên chớp chớp mắt, trả lời: “Ta cũng không biết, ta đi công chuyện ngang đây, nghe nói có một đạo long khí quấn quanh vách núi đã ba bốn ngày, rất nhiều tiên hữu đều đến đây xem, ta cũng tiện đường đến xem. Chuyến này quả không uổng công, long khí này, chậc chậc chậc, không phải long khí bình thường, tuyệt đẹp, ta ngồi đây ngắm đã hai ngày rồi. Ngươi thả con chim này đi bắt sâu, lát nữa chúng ta cùng xem, đảm bảo khiến ngươi đã mắt, bên ta còn một chỗ, đây, chúng ta ngồi đây xem…”.
Tứ ca cảm ơn rồi từ chối ý tốt của tiểu thần tiên đó, im lặng quay về, hắng giọng nói: “Không có gì, bọn họ ngưỡng mộ phong thái của Côn Luân, nên đến chiêm bái”.
Chiết Nhan rũ rũ tay áo, ho một tiếng, nụ cười phảng phất, nói với Mặc Uyên: “Côn Luân vốn là một tòa núi tiên mọc ra từ long cốt(42). Có lẽ nó cảm nhận được ngươi sắp quay về, nên phấn chấn tới mức xuất ra long khí để đón tiếp, thế nên đã thu hút được một số tiểu tiên thiếu hiểu biết xung quanh”.
Mặc Uyên nhếch môi cười.
Để tránh quấy rầy đám tiểu thần tiên ở lưng chừng núi, năm người chúng ta đều ẩn thân đi vào trong. Nhờ cửu sư huynh giữ nguyên nếp cũ, phép khóa ở cửa núi vẫn như xưa, không hề sửa đổi.
Ta ngỡ rằng hôm nay sẽ chỉ có thể gặp mỗi Lệnh Vũ, nào ngờ vừa bước vào, cảnh tượng trước mặt làm ta giật nảy cả mình. Mười sáu sư huynh của ta, đều mặc đạo bào như khi còn làm đệ tử của Côn Luân, tóc búi kiểu đạo sĩ, đứng thành hai hàng bên cạnh con đường đá.
Cây trong viện vẫn là cây Bà La Song mà mấy vị Phật Đà từ Tây Thiên đến uống trà mang tới. Mười sáu sư huynh của ta đứng trang nghiêm dưới bóng Bà La Song, dường như đã đứng đó suốt bảy vạn năm.
Đại sư huynh mắt đỏ hoe trước tiên, quỳ “phịch” một tiếng xuống đất, giọng run run: “Mấy hôm trước Cửu sư đệ đưa tin tới, nói long khí ở Côn Luân bốc lên, có lúc còn có tiếng rồng gầm, không biết là điềm gì, sư huynh đệ chúng con về ngay trong đêm, tuy từng nghĩ là điềm lành sư phụ sẽ quay về nhưng cũng không dám tin. Hôm nay ở trong điện cảm thấy khí trạch của người quẩn quanh bên ngoài, chúng con vội vã chạy ra nhưng vẫn không kịp ra ngoài cửa núi đích thân đón người, sư phụ, người đi đã bảy vạn năm, giờ mới quay về”. Dứt lời, đã khóc không thành tiếng. Khuôn mặt huynh ấy đã không còn là gương mặt thuở niên thiếu, tuổi tác đã cao hơn nhiều, khóc như thế này, thực khiến người ta nghẹn lòng. Mười lăm sư huynh còn lại đều nhất loạt quỳ xuống nức nở. Mười sáu sư huynh đều khóc không thành tiếng.
Mặc Uyên cúi nhìn, nói: “Đã để các con phải chờ lâu rồi, đứng dậy cả đi, vào trong nhà rồi nói”.
Câu chuyện bắt đầu là các sư huynh khóc lóc một trận, khóc xong bèn kể năm đó không cẩn thận đã để lạc mất Tư Âm Thần Quân, tức thượng thần bất tài là ta.
Nhắc đến ta, đại sư huynh bi phẫn khôn cùng. Năm đó vốn là ta bỏ thuốc bọn họ, rồi trộm tiên thể của Mặc Uyên rời khỏi Côn Luân ngay trong đêm. Sai lầm này của ta huynh ấy quyết không nhắc tới, chỉ luôn miệng nói đã không chăm sóc ta, để lạc ta, là lỗi của huynh ấy. Mấy năm nay huynh ấy không ngừng tìm kiếm ta, nhưng bặt vô âm tín, có lẽ ta đã lành ít dữ nhiều. Huynh ấy thân là đại sư huynh mà không làm tròn bổn phận, đến tiểu sư đệ cũng không bảo vệ nổi, xin sư phụ xử phạt thật nặng.
Ta đứng bên cạnh tứ ca, nghe huynh ấy nói như vậy, viền mắt đỏ hoe, vội vàng trình bày: “Ta không phải lành ít dữ nhiều, ta đang đứng sờ sờ trước mặt huynh, chẳng qua ta chỉ thay đổi xiêm y, ta là Tư Âm đây”.
Các sư huynh ngẩn người, đại sư huynh loạng choạng ngã xuống đất, một lúc sau, mới lồm cồm bò dậy ôm lấy ta, lau nước mắt, chua chát nói: “Cửu sư đệ nói trong lòng ai cũng có một giấc mộng đoạn tụ, năm đó nhị hoàng tử Quỷ tộc đến cướp đệ, ta đã đánh cho hắn đứt giấc mộng này, nhưng lại không kịp thời cắt đứt giấc mộng của đệ, Thập Thất đáng thương biết bao, bây giờ đệ đã thành đoạn tụ, còn lại là đoạn tụ thích mặc quần áo con gái…”.
Tứ ca không nhịn được cười sằng sặc.
Ta cố gắng ngăn dòng lệ, đau buồn nói: “Đại sư huynh, khuôn mặt này của ta, huynh xem lại có phải là nam giả nữ không?”.
Thập sư huynh kéo đại sư huynh ra, ngượng ngùng nói: “Trước đây đệ không chịu tắm chung với bọn ta, hóa ra là vì thế, hóa ra Thập Thất đệ lại là con gái”.
Tứ ca ta kéo dài giọng: “Nàng là một nữ nhi xinh đẹp…”.
Ta đá cho huynh ấy một cái.
Đại sư huynh trước đây không như vậy, quả nhiên tuổi cao sẽ dễ dàng trở nên đa sầu đa cảm.
Sau chuyện của ta, là kể đến chuyện các sư huynh trong bảy vạn năm nay đã tự mình gây dựng sự nghiệp hiển hách.
Mười sáu sư huynh này của ta, thuở thiếu thời cũng chẳng ra sao, ta theo bọn họ, tuy không trèo cây hái táo, xuống sông bắt cá nữa, nhưng lại học được thói đá gà, đuổi chó, chọi dế, học được thói cưỡi ngựa xem hoa, uống rượu xem cung xuân đồ, chuyện nào cũng thành thạo, giấu sư phụ xuống trần gian làm bậy, còn tự cho mình là phong lưu ngàn năm khó gặp.
Ngày nay ta ra nông nỗi này, không thể không kể đến công lao của mười sáu sư huynh. Nhưng mười sáu sư huynh khiến ta ra nông nỗi này, ai cũng thành tài. Khi ông trời an bài số phận cho chúng ta, hẳn ông ấy đang ngủ gật.
Nhưng cơn ngủ gật của ông trời lại khiến ta rất hởi lòng hởi dạ, hẳn sư phụ người cũng rất hởi lòng hởi dạ.
Sau khi hởi lòng hởi dạ, tai lắng nghe những chiến công hiển hách của các sư huynh, lại nghĩ đến lúc các huynh ấy lập công lao ta đang làm những gì, so sánh với nhau, một cảm giác buồn bã cứ thế dâng trào.
Tứ ca ngồi bên cạnh tay cầm bút ngồi chép lia lịa, thỉnh thoảng còn vỗ tay hô to: “Ly kỳ, thật ly kỳ”. Ngoài cảm xúc buồn bã ra là cảm giác mất mặt, xấu hổ.
Thập sư huynh an ủi ta: “Muội là con gái, con gái thì chẳng cần lập công lao làm gì, đám muội muội của ta cả ngày chỉ nghĩ đến chuyện gả cho một nhà chồng tốt, Thập Thất, muội chỉ cần gả cho một nhà chồng tốt là hạnh phúc rồi”.
Thập lục sư huynh cười hì hì nói: “Thập Thất đã ngần này tuổi, không cần nói đến nhà chồng nữa, e rằng con cũng có mấy đứa rồi. À, đúng rồi, hôm nào cho các sư huynh gặp phu quân của muội đi. Dung mạo, tính cách muội như vậy, không biết được gả cho vị phu quân như thế nào”.
Những lời của huynh ấy từng câu từng chữ giẫm vào vết đau của ta, ta lau mồ hồi trán, ngượng ngập cười khan nói: “Nói hay lắm, nói hay lắm, tháng sau nữa là lễ thành hôn của muội, lúc đó mời các huynh đến uống rượu”.
Mặc Uyên từ nãy tới giờ ngồi bên lắng nghe, khi ta thốt ra hai tiếng “uống rượu”, chén trà trong tay người nghiêng một cái, rớt một nửa ra ngoài, ta vội chạy đến thu dọn. Chiết Nhan ho hai cái.
Cửu sư huynh Lệnh Vũ quản lý Côn Luân đâu ra đó, tứ ca tròn một tháng không về động Hồ Ly, bụi trong phòng huynh ấy cũng tích dày nửa thước. Đã bảy vạn năm ta chưa lên Côn Luân, căn phòng ta ở khi còn làm đệ tử vẫn sạch sẽ tinh tươm. Ta hôi rình mồ hôi, nằm trên giường, rồi lại trở mình một cái.
Người ở phòng bên cạnh là Thập lục sư huynh Tử Lan. Ta nghe thấy huynh ấy gõ gõ lên tường, hỏi: “Thập Thất, muội ngủ chưa?”.
Ta hừ mũi, để tỏ ý chưa ngủ. Nhưng âm thanh này cũng chỉ như muỗi kêu vo ve, có lẽ huynh ấy không nghe thấy, nên lại thưa: “Chưa ngủ”.
Huynh ấy ngưng bặt một lát, rồi âm thanh lại vẳng qua tường: “Bảy vạn năm nay, vì sư phụ, muội đã khổ nhiều rồi”.
Trong ấn tượng của ta, Thập lục sư huynh này rất thích chọc ghẹo ta, làm những việc ngược với ta, ta nói đông, huynh ấy sẽ chỉ tây, ta nói thứ này tốt, huynh ấy sẽ chê thứ đó không đáng một đồng. Bây giờ huynh ấy nói câu này, không khỏi nghi ngờ, rốt cuộc huynh ấy có phải là Thập lục sư huynh không, bèn cao giọng hỏi: “Huynh là Tử Lan à?”. Huynh ấy im lặng một lát, hừ một tiếng: “Bảo sao ngần này tuổi muội vẫn không lấy được chồng”.
Huynh ấy đúng là Tử Lan.
Ta cười ha ha, không thèm so đo với huynh ấy, nằm trên giường trở mình.
Ta sống đến ngần này tuổi, tuy đã trải qua biết bao chuyện phải nuối tiếc, nhưng giờ đây, trên chiếc giường mỏng manh ở núi Côn Luân này, ta lại cảm thấy những chuyện phải nuối tiếc trong quá khứ thực ra không đáng để nuối tiếc. Ánh trăng dìu dịu lọt vào trong phòng, phong cảnh bên ngoài ô cửa sổ kia không có gì đặc biệt cả.
Nhị ca thường dùng lý luận “tri túc thường lạc”(43) để tôi luyện tính cách của ta. Nhưng ta chưa bao giờ biết thế nào là “biết đủ”, cảm thấy “biết đủ” không giống như hay quên có thể vui, ngày tháng trôi qua hồ đồ, điên đảo. Giờ đây ta đã hiểu ra, hay quên chẳng qua chỉ là tự lừa dối bản thân để mong sống yên vui, “biết đủ” lại có thể khiến người ta thực sự thoải mái. Thực sự thoải mái rồi, sự yên vui này mới là sự yên vui vĩnh hằng. Hiểu thấu điều này, trong phút chốc, ta cảm thấy mình quá hạnh phúc, chỉ mong mau mau được nói cho Dạ Hoa nghe. Nhưng có lẽ lúc này Dạ Hoa có nghe cũng không hiểu những gì ta nói. Giây phút này, có lẽ chàng đã tròn một tuổi. Haizz, không biết khi tròn một tuổi chàng trông như thế nào, đôi mắt ấy có lạnh lẽo như hồ nước giống chàng bây giờ hay không? Chiếc mũi ấy có cao giống chàng bây giờ hay không? Haizz, không biết chàng có giống cục bột nhỏ hay không.
Ta đã nghĩ rất nhiều, rồi dần dần chìm vào giấc ngủ.
Không hiểu sao việc Mặc Uyên quay trở lại bị đồn ra ngoài, sáng sớm hôm sau, những loài bay trên trời, bò dưới đất, phàm là có chút linh căn, đều có thể biết được thượng thần cai quản âm nhạc và chiến tranh đã quay về.
Theo như tin đồn thì, Mặc Uyên đầu đội mũ vàng tía, thân mặc áo giáp Huyền Tinh, chân đi giày Tạo Giác, tay cầm kiếm Hiên Viên, trong lòng còn ôm một tiểu nương tử yểu điệu thướt tha, vào giờ Mùi ba khắc ngày mười sáu tháng tám, người uy phong lẫm liệt đậu xuống núi Côn Luân. Lúc Mặc Uyên đậu xuống núi Côn Luân, dãy núi dài men theo Côn Luân đều rúng động ba lần, chim muông muôn thú đều ngửa cổ lên trời kêu dài, cá, rồng dưới nước đều nổi lên vui mừng kinh ngạc rơi lệ.
Tin đồn này quá phi lý, mười bảy sư huynh đệ chúng ta nghe thấy mà chực khóc ròng.
Mũ vàng tía, giáp Huyền Tinh, hài Tạo Giác, kiếm Hiên Viên thì đúng là trang phục xưa nay khi Mặc Uyên xuất chinh, bảy vạn năm nay vẫn luôn đặt ở chính điện ở Côn Luân, để cho các đệ tử chúng ta chiêm ngưỡng. Còn tiểu nương tử yểu điệu thướt tha, ta và tứ ca suy nghĩ rất lâu, mới hiểu ra có lẽ là chỉ thượng thần bất tài là ta.
Những tin đồn quái ác này ai ai cũng biết, cho nên họ đều lũ lượt hết tốp này đến tốp khác đến bái kiến.
Mặc Uyên định ngày thứ hai sau khi về Côn Luân sẽ đóng cửa tu luyện, nhưng vì vậy nên phải dời lại mấy ngày.
Đám tiểu thần tiên đến bái kiến không có gì đặc biệt, có người được đại sư huynh, nhị sư huynh dẫn đến trước mặt Mặc Uyên nói một, đôi câu; có người chỉ ngồi ở tiền sảnh uống trà, nghỉ ngơi rồi ra về. Chỉ có người thanh niên đến vào trưa ngày thứ ba mới có chút bất thường.
Người thanh niên này toàn thân vận áo bào trắng, thanh tú tao nhã, nét mặt cũng hết sức hiền hậu. Lúc Mặc Uyên gặp y, nét mặt lạnh lùng cũng hơi sững lại. Người thanh niên vận bào trắng cẩn thận quan sát Mặc Uyên, nhưng không hành lễ, chỉ nhíu mày, nói: “Đã lâu không gặp thượng thần, tinh thần thượng thần vẫn như xưa. Trọng Doãn lần này đến Côn Luân, chỉ vì đêm qua tỷ tỷ báo mộng cho ta, nhờ ta gửi một câu đến thượng thần, tỷ tỷ ta”, y cười cười, nói, “tỷ ấy nói tỷ ấy chỉ có một mình, cô đơn biết bao”.
Ta vẫy một tiểu đồng hầu hạ bên Thập sư huynh lại, sai nó đi rót thêm trà cho Trọng Doãn áo trắng kia.
Mặc Uyên không nói gì, chỉ chống má lạnh nhạt dựa vào tay vịn của ghế ngồi.
Chiết Nhan liếc Mặc Uyên một cái, rồi lại cười hòa nhã với Trọng Doãn: “Tiểu đệ Trọng Doãn, phải chăng ngươi đang nói đùa, tỷ tỷ ngươi đã tan thành tro bụi mười mấy vạn năm rồi, sao có thể báo mộng cho ngươi được?”.
Trọng Doãn cũng nhã nhặn nheo mắt đáp lời: “Thượng thần Chiết Nhan quả thực đã trách nhầm Trọng Doãn rồi, Trọng Doãn đúng là tới để chuyển lời của tỷ tỷ, không hề có ý gì khác. Ta cũng chẳng muốn nhọc sức, chỉ là trong giấc mộng tỷ tỷ quá đáng thương, không đành lòng nên hôm nay mới phải lên Côn Luân. Thượng thần Chiết Nhan nói tỷ tỷ của Trọng Doãn đã tan thành tro bụi, nên không thể báo mộng cho Trọng Doãn. Nhưng thượng thần Mặc Uyên chẳng phải khi xưa cũng nói là tan thành tro bụi, đến giờ lại có thể quay về, tỷ tỷ ta tuy tan thành tro bụi, nhưng hồn chẳng biết ở tận nơi đâu, báo mộng cho ta, thì có gì là không thể chứ?”.
Dứt lời y cúi người hành lễ, rồi đi ra khỏi chính điện.
Đến khi Trọng Doãn ra khỏi chính điện, Chiết Nhan mới đọc một câu kinh Phật.
Mặc Uyên không nói câu gì từ khi ngồi xuống, giờ đi về phía hậu viện. Ta nhấc chân lên định chạy theo xem xem, liền bị Chiết Nhan chặn lại.
Nhị sư huynh trưng bộ mặt khổ sở sán lại: “Sư phụ đi như thế, nếu có tiên hữu tới thăm hỏi, thì phải làm thế nào?”.
Chiết Nhan buồn rầu ngẩng lên nhìn trời cao, nói: “Dẫn họ đến tiền sảnh uống trà đi, uống đủ rồi thì tiễn về. À, mà trà còn đủ dùng không?”.
Ta nhẩm tính, gật đầu, nói: “Còn đủ, còn đủ”.
Ta luôn cảm thấy sư phụ ta Mặc Uyên, là một người rất có lai lịch. Tất cả đều có trước có sau, sư phụ quả nhiên là người có lai lịch. Nhưng nghe lời lẽ của Trọng Doãn áo trắng kia, thì dường như là một lai lịch đầy mưa máu gió tanh. Ta hơi lo lắng. Thân làm đệ tử nên tận hiếu, ta định bụng khi chiêu đãi xong đám tiểu thần tiên ở tiền sảnh sẽ đến phòng của Mặc Uyên để an ủi người.
Đêm đến, khi ta đẩy cửa phòng của Mặc Uyên, người đang ngồi trầm tư trước cây cổ cầm, ánh đèn vàng vọt hắt lên khuôn mặt, lộ rõ thần sắc đau thương của người. Ta đứng trước cửa sững sờ, ánh mắt người đang nhìn cây cổ cầm dần dần ngước lên, cười nhạt nói: “Đứng ở cửa làm gì, vào đi”.
Ta lặng lẽ bước vào, định bụng đến an ủi người, nhưng câm nín hồi lâu, mà chẳng thốt lên được câu nào. Chuyện của người thực ra ta cũng không rõ, nhưng nghe người thanh niên áo trắng đó nói, thì chắc chắn là một mối bi tình trăng gió. Nếu như là một mối bi tình trăng gió, thông thường nên lấy câu gì mào đầu đây?
Ta suy nghĩ rất lung, bên tai bỗng vang lên tiếng đàn rời rạc. Tay phải Mặc Uyên lướt trên phím đàn, tùy ý gảy mấy nốt, nói: “Cái tật lúc nào cũng lơ đễnh của ngươi vẫn giống như mấy vạn năm trước”.
Ta chun mũi cười cười, rồi đến cạnh người, ra vẻ thân thiết khuyên nhủ: “Sư phụ, người chết không thể hồi sinh, có lẽ Trọng Doãn quá nhớ tỷ tỷ mình, người chớ nên canh cánh trong lòng”.
Người sững lại, cúi đầu lại tùy ý gảy hai nốt đàn, rồi lạnh lùng nói: “Đêm nay ngươi qua đây là vì chuyện này ư?”.
Ta gật đầu.
Tiếng đàn hỗn loạn bỗng ngưng bặt.
Người ngẩng đầu nhìn, nhìn ta rất lâu, lại hỏi một câu chẳng liên quan: “Ngươi đối với hắn, là thật lòng ư?”.
Mất một lúc lâu ta mới hiểu “hắn” ở đây là Dạ Hoa, trong lòng tuy cảm thấy hơi ngượng khi nói chuyện này trước mặt bề trên, nhưng xấu hổ không phải là phong cách của ta, bèn sờ mũi thành thật nói: “Thật lòng. Vô cùng thật lòng”.
Người ngoảnh mặt đi, nhìn ra ngoài khung cửa rất lâu, nói: “Vậy thì tốt, ta cũng an tâm”. Đêm nay thần sắc của người hơi cổ quái, lẽ nào, lẽ nào lo lắng ta làm con gái thì không ra gì, cho nên không gả được chồng sao? Ta hiểu ra điều này, cười hì hì an ủi người: “Sư phụ không cần lo lắng, Dạ Hoa chàng rất tốt, chúng con tâm đầu ý hợp, con đối với chàng thật lòng, chàng đối với con cũng vậy”.
Người không quay đầu lại, chỉ lạnh lùng nói: “Đêm khuya rồi, ngươi về phòng nghỉ đi”. Từ đó về sau, Mặc Uyên hiếm hoi mới đến chính điện. Đêm đó ta đến để an ủi người, nhưng sau khi ra khỏi phòng của người mới phát hiện là chưa hề an ủi gì, ta thấy hơi xấu hổ. Có lẽ chuyện này vẫn nên tự mình bỏ đi mới được, người ngoài rốt cuộc vẫn không thể giúp được.
Cứ tưởng không gặp được Mặc Uyên đã làm nhiệt tình muốn thăm hỏi của đám tiểu thần tiên mấy hôm trước nhạt bớt, chẳng ngờ tinh thần của họ vẫn hừng hực như cũ. Đến ngày cuối cùng, thời gian họ ngồi uống trà ngày càng lâu, lượng trà uống cũng ngày càng nhiều. Tứ ca đoán rằng đây chính là một cơn gió độc mang tên ganh đua. Ví dụ như lúc ta còn nhỏ thường so bì xem ai có thể hái được nhiều đào hơn, uống được nhiều rượu hơn ở chỗ Chiết Nhan. Cho nên đã vội vã dán một trang cáo thị, thông báo cho các thần tiên đến Côn Luân thăm hỏi, mỗi người chỉ có thể nhận một chén trà để uống, lại không được thêm nước. Nhưng cho dù như vậy, người đến vẫn nườm nượp.
Ta ngồi ở tiền sảnh đóng giả người pha trà mười hai ngày, đêm ngày thứ mười hai cuối cùng đã không chịu nổi, lôi tứ ca đến dưới gốc táo trong trung đình, cầu xin huynh ấy giúp ta trông chừng thời gian khoảng bảy, tám nén nhang, để ta xuống trần gian một chuyến xem xem Dạ Hoa ra sao.
Táo ngọt ở cây táo đã kết quả to bằng ngón tay, vỏ quả màu xanh, vẫn chưa ăn được. Tứ ca hái hai quả, cầm trong tay, nói: “Muội lén lút như vậy không phải sợ bị các sư huynh biết được, cười muội là nữ nhi tình trường chứ?”.
Huynh ấy cũng có lúc nhìn nhầm.
Ta thế này chẳng có liên quan gì tới các sư huynh, có điều lo lắng Mặc Uyên biết được đệ đệ song sinh của người bị xuống trần gian lịch kiếp, buộc phải đi xem sao, trần thế ô trọc, không tốt cho việc hồi phục tiên thể của người. Tứ ca nghĩ như vậy, có lẽ huynh ấy cảm thấy nữ nhi đều mặt mỏng cả, cho dù ta đã cao tuổi, nhưng cũng không phải là ngoại lệ. Nào hay da mặt ta còn dày hơn huynh ấy tưởng rất nhiều, đã phụ sự tin tưởng của huynh ấy, ta cũng cảm thấy hơi xấu hổ.
Tứ ca xòe ra ba ngón tay, nói: “Nếu như đồng ý trông khoảng bảy, tám nén nhang, đêm nay huynh khỏi phải ngủ nữa, nên nhiều nhất cũng chỉ trông giúp muội khoảng một nén nhang. Dạ Hoa chẳng qua xuống trần gian lịch kiếp, chứ có gì to tát đâu, mà muội cũng phải đi theo để xem, muội bám hắn cũng chặt thật đấy”.
Ta im thin thít, tai đỏ bừng bừng. Hôm nay nhờ vả không chọn đúng lúc, ta quên béng rằng buổi chiều huynh ấy vừa cãi cọ với Chiết Nhan ở hành lang. Nhưng thời gian một nén nhang cũng khiến ta thỏa nguyện rồi, thế nên sấn bước ra ngoài núi.
Huynh ấy vứt hai quả táo trong tay xuống hồ sen, khẽ buông một câu: “Nếu quá một nén nhang mà không quay về, đừng trách huynh đích thân xuống nhắc muội đấy”. Có thể thấy hôm nay tứ ca giận Chiết Nhan ghê gớm.
Trên núi Côn Luân dải ngân hà lấp lánh ánh sao, đêm sâu thăm thẳm, còn ở phàm trần lại là ban ngày, trời xanh ngăn ngắt. Ta đậu xuống bên ngoài một phòng học, rồi ẩn thân, nghe thấy tiếng đọc sách vẳng lại: “Thúc Hướng gặp Hàn Tuyên Tử, Huyên Tử lo nghèo, Thúc Hướng chúc mừng”(44).
Ta nhìn về phía nơi phát ra tiếng đọc, ánh mắt chạm phải một đứa bé mặt mũi khôi ngô ngồi cuối lớp. Gương mặt đứa trẻ này tuy có thể coi là xuất chúng ở phàm trần, nhưng vẫn hơi non nớt, có lẽ khi lớn lên chưa chắc đã bằng gương mặt của Dạ Hoa, nhưng thần sắc lạnh lùng thì giống hệt Dạ Hoa.
Tiếng đọc dứt, thầy giáo liếc cuốn sách giáo khoa trong tay, nói: “Liễu Ánh, con hãy đứng dậy giải thích cho các bạn nghe đi”. Đứa trẻ lạnh lùng thưa vâng đứng dậy. Lòng ta run run, ánh mắt của bản thượng thần thật tinh tường, đứa trẻ này quả nhiên là Dạ Hoa đầu thai. Ta liền hiểu ra, cho dù chàng chuyển thành dáng vẻ gì ta vẫn nhận ra chàng.
Chàng giải thích rành rọt, cặn kẽ từng điều, thầy giáo vuốt chòm râu dê nghe rất chăm chú, nét mặt khoan khoái, khiến ta nhớ đến sự hãnh diện của Thập lục sư huynh Tử Lan ở lớp học năm nào.
Đây thực sự là một chuyện đau lòng, mất mặt. Năm đó, bản thượng thần còn ngây ngô, bị các sư huynh dẫn dắt thành ra không tiến bộ đã quen, khi lên lớp Mặc Uyên giảng bài, ta cảm thấy thật tẻ nhạt, thường cùng Thập ngũ sư huynh chuyền giấy nói chuyện riêng, coi đó là thú vui. Nhưng chúng ta đạo hạnh nông, học nghệ không tinh, mười lần thì chín lần bị Mặc Uyên bắt. Phương pháp trách tội của Mặc Uyên mãi mãi không thay đổi, hễ bị bắt được là phải đọc thuộc một đoạn Phật lý dài lê thê, hết sức khô khan trước mặt các sư huynh. Đáng thương thay râu ria của những đoạn Phật lý mà sư phụ chỉ định ta đều không biết gì hết, càng chớ nói đến chuyện đọc thuộc nó. Ta dùng dằng, dùng dằng mãi, ngắc nga ngắc ngứ, Thập lục sư huynh mãi đến lúc này được gọi dậy, đọc trôi chảy đoạn Phật lý đó trước mặt ta, rảnh rỗi còn có thể giải thích qua loa một lượt ý nghĩa của đoạn vừa đọc. Thế nên, phàm là những người có tri thức, đều có thể lập tức vừa nhìn đã nhận ra ta là đệ tử không tiến bộ.
Thập ngũ sư huynh và ta “đồng bệnh tương lân”, chúng ta cảm thấy Tử Lan kia quá thông minh, thực đáng ghét, bèn chỉ trời chỉ đất mà thề, đời này sẽ không chơi bời với loại người thông minh, còn viết một lá thư, điểm chỉ lên đó, chôn dưới gốc cây táo trong trung đình ở Côn Luân, để làm chứng.
Nhưng bây giờ, dáng vẻ thông minh đĩnh đạc của Dạ Hoa trong lớp học, ta lại thấy sao mà đáng yêu.
Ta ẩn mình bên ngoài cửa sổ lớp học, đợi đến khi họ tan trường.
Hai tiểu thư đồng giúp Dạ Hoa thu dọn bàn học, rồi cõng chàng ra khỏi cửa. Ta cũng bám gót theo sau, không biết làm thế nào mới có thể hiện hình một cách tự nhiên rồi đến trước mặt chàng chào hỏi. Ta suy nghĩ, đắn đo, chần chừ. Sau lưng vang lên tiếng “vèo vèo”, ta vừa phất tay áo theo phản xạ, hai viên đá nhỏ bay vút tới lập tức bị đổi hướng, đập “bộp” lên thân cây liễu già ven đường.
Tiếng động khiến Dạ Hoa quay đầu, ba, bốn đứa trẻ kêu ầm lên rồi bỏ chạy, vừa chạy vừa hát bài đồng dao. Bài đồng dao này tổng cộng có bảy câu, rằng: “Gạo cũng quý, dầu cũng quý, nhà họ Liễu sinh ra đứa tàn phế. Kiếp trước tạo nghiệt, kiếp này đền, đạo trời luân hồi chẳng thương lượng. Cho dù thần đồng biết nhiều chữ, một kẻ tàn phế biết làm chi?”. Đầu ta “ầm” một tiếng, ngẩng đầu nhìn cánh tay phải của Dạ Hoa.
Thiên Quân, con bà ông chứ. Dạ Hoa là cháu ruột ông, sao ông lại độc ác thế, đầu thai rồi cũng không chịu cho chàng một cơ thể bình thường, ống tay áo bên phải của Dạ Hoa rõ ràng, rõ ràng là trống không mà!
Hai đứa thư đồng cõng Dạ Hoa một lòng bảo vệ chủ, định đuổi theo mấy con thỏ đế thì bị ngăn lại. Mấy con thỏ đế đó ta nhìn rất quen, chợt nhớ ra là bạn học của Dạ Hoa. Là người từng trải, ta thừa hiểu suy nghĩ của chúng, chắc chắn là học hành chẳng ra sao, thấy Dạ Hoa tài hoa hơn người, nên sinh lòng ghen ghét. Nhưng ghen ghét thì cứ ghen ghét, im lặng ở bên cạnh không thèm đếm xỉa là được rồi, còn bịa ra bài đồng dao độc ác kia thực quá đáng. Hừ, lũ thỏ đế chậm tiến bộ như thế, sau này nếm khổ, mới biết rằng những việc làm năm xưa mới hồ đồ làm sao.
Cánh tay trái Dạ Hoa phẩy phẩy ống tay phải trống phơ phất, hơi cau mày, không nói gì mà quay người tiếp tục đi về phía trước. Ta rất đau lòng nhưng không thể lập tức hiện hình, để tránh dọa mấy người bọn họ, đành nuốt nỗi chua xót vào trong lòng.
Từ lúc hoàng hôn đến khi đêm xuống, ta không tìm được thời cơ thích hợp để hiện thân trước mặt Dạ Hoa. Hai đứa thư đồng lúc nào cũng bám sát lấy chàng, khiến ta phát bực. Cuối giờ Tuất, Dạ Hoa mới leo lên giường, hai đứa thư đồng cởi áo hầu chàng đi ngủ, sau khi tắt đèn khoảng nửa tuần trà, cuối cùng đã ngáy khò khò.
Ta thở phào một hơi, giải chú ẩn thân, ngồi bên giường Dạ Hoa, mượn ánh trăng sáng bên ngoài khung cửa, đến gần ngắm chàng thật kỹ, lại đưa tay lay lay chàng tỉnh qua lần chăn. Dạ Hoa “ừm” một tiếng, nửa ngồi nửa mơ màng nói: “Chuyện gì thế?”, đến khi nhìn rõ người ngồi trước mặt chàng không phải là thư đồng mà là ta thì sững sờ. Chàng cứ đờ đẫn nhìn ta, mãi sau, nhắm mắt rồi lại nằm xuống giường, miệng còn lầm rầm: “Hóa ra là nằm mơ”.
Ta run rẩy trong lòng, cuống quýt lay chàng dậy, trước khi chàng cất tiếng đã hỏi trước: “Chàng nhận ra ta không?”. Ta biết chắc chàng không nhận ra, ban nãy chỉ là câu nói thốt ra khi bị đánh thức thôi, nhưng lòng vẫn ôm một tia hy vọng, vẫn bướng bỉnh mở miệng hỏi.
Quả nhiên chàng trả lời: “Không nhớ”. Mày hơi nhíu lại, có lẽ đã tỉnh ngủ, ngập ngừng hồi lâu, nói: “Không phải ta nằm mơ sao?”.
Ta móc một viên dạ minh châu to bằng trứng bồ câu từ trong tay áo ra, tốt xấu gì cũng tỏa chút ánh sáng, kéo tay chàng chạm lên mặt ta, cười nói: “Chàng cảm thấy đang trong mộng sao?”.
Khuôn mặt chàng liền từ từ ửng đỏ.
Ta nhích lại ngồi gần chàng hơn một chút, chàng lùi lại phía sau, mặt lại đỏ lựng lên. Ta chưa từng gặp một Dạ Hoa như thế này, cảm thấy thật mới mẻ, lại ngồi xuống trước mặt chàng, chàng dứt khoát lùi vào góc tường, rõ ràng gương mặt trắng trẻo đã đỏ bừng bừng, vậy mà còn ra vẻ lạnh lùng, điềm tĩnh, nói: “Nàng là ai? Sao lại vào phòng ta?”.
Ta nhớ đến một vở kịch nổi tiếng mình đã từng xem, kể về một con cá tầm tinh màu trắng tên là Bạch Thu Luyện yêu một chàng công tử thiếu niên tên là Mộ Thiềm Cung, tương tư thành bệnh, cho nên đêm đêm gặp gỡ, là một câu chuyện rất hay. Dạ Hoa thế này khiến ta nảy ý muốn trêu chọc, bèn làm bộ ưu sầu nói: “Thiếp vốn là một tiểu tiên ở Thanh Khâu, mấy hôm trước xuống trần du ngoạn, hâm mộ phong thái của lang quân, đem lòng tưởng nhớ lang quân, vì chàng mà võ vàng tiều tụy, thế nên mới đến cùng chàng ân ái một đêm”, lại còn giả vờ xấu hổ nhìn chàng một cái. Lời này tuy rằng khiến toàn thân ta nổi da gà, nhưng nhìn ánh mắt chàng, ta tự thấy mình diễn rất tốt.
Chàng ngẩn người, lát sau mặt đỏ tía tai, che ống tay áo ho hai tiếng: “Nhưng, nhưng chỉ mới mười một tuổi”. … Thời gian một nén nhang trôi qua thật nhanh, Dạ Hoa lúc đầu thai thú vị hơn chàng lúc bình thường rất nhiều. Xem ra nhà họ Liễu ở phàm trần dạy con cái còn bài bản hơn lão Thiên Quân cô độc trên Cửu Trùng Thiên. Ta cũng hơi yên tâm.
Ta chưa nới với chàng về nhân duyên kiếp trước, chàng cũng tin rằng ta chỉ là một tiểu tiên vô tình say mê phong thái của chàng, mà đem lòng yêu nhớ, chỉ có điều luôn băn khoăn mình mới mười một tuổi mà thôi, sao lại có thể làm cho một nữ thần đã qua tuổi hoa niên mê mẩn được, huống hồ mình lại còn tàn phế một tay.
Cho nên quá trình khuyên nhủ chàng vô cùng vất vả.
Ta mong chàng có thể reo hò như những đứa trẻ bình thường khác, nhưng kiếp này chàng lại là một thần đồng, tương lai sẽ là một tài tử. Bọn tài tử xưa nay càng khó thuyết phục, lay động hơn người thường, cho nên ta chỉ có thể chỉ trời chỉ đất làm chứng, thi thoảng còn diễn ánh mắt yếu đuối, buồn thảm, thút thít đôi tiếng, cuối cùng cũng khiến chàng tin ta.
Trước lúc đi, chúng ta trao tín vật cho nhau, ta trao cho chàng chuỗi ngọc mà lúc ta xuống trần giúp Nguyên Trinh độ kiếp chàng đã trao cho ta. Chuỗi ngọc này có thể bảo vệ chàng bình an, ta không thể ở bên chàng, chàng đeo chuỗi ngọc này cũng có thể khiến ta an tâm hơn. Chàng lấy miếng ngọc bội đeo trên cổ xuống, đeo lên cổ ta. Ta ghé sát tai chàng, không quên dặn dò chuyện quan trọng: “Chàng không được cưới người con gái khác, đợi rảnh rỗi thiếp sẽ đến thăm chàng nhiều hơn, đợi khi chàng lớn, thiếp sẽ lấy chàng”. Chàng đỏ mặt, bình tĩnh gật đầu đồng ý.
Ta nói rảnh rỗi sẽ đến thăm Dạ Hoa nhiều hơn. Nhưng sau khi về tới Côn Luân, lại chẳng hề được rảnh rỗi.
Mặc Uyên cuối cùng đã định được ngày đóng cửa tu luyện, sau bảy ngày nữa. Chiết Nhan cần luyện ít đan dược cho Mặc Uyên, để khi người đóng cửa tu luyện có thể mang vào trong động phối hợp trị liệu, chọn ta đi giúp lão một tay. Cả ngày ta quẩn quanh trong phòng thuốc hoặc phòng luyện đan, đến thời gian nghỉ ngơi uống trà cũng không có. Đến chiều ngày mùng hai tháng chín, đem một bình ngọc đựng đầy đan dược mới luyện thành trao cho Mặc Uyên, để người mang vào động. Trước khi vào động, thần sắc người bơ phờ mệt mỏi, không nói gì với các sư huynh, chỉ hỏi ta một câu: “Dạ Hoa đối với ngươi tốt chứ?”. Ta thành thật đáp, người gật gật đầu rồi đi vào trong động.
Sau khi Mặc Uyên đóng cửa tu luyện thì không còn thần tiên nào đến. Ta nhẩm số trà trên núi cũng sắp uống hết rồi.
Mười lăm sư huynh từng người cáo từ trở về làm việc của mình, chỉ để lại tiểu đồng của mình giúp đỡ Cửu sư huynh lo liệu. Ta cũng theo Chiết Nhan và tứ ca cáo từ xuống núi.
Sau khi xuống núi, ta bay thẳng đến trần gian.
Tính ra Dạ Họa năm nay đã mười tám, mười chín tuổi, với người phàm trần đây là tuổi tài hoa phong nhã đương nở rộ, không biết tiểu Dạ Hoa mười một tuổi nay đã như thế nào.
Ta ôm ấp trái tim đầy kích động, nhẹ nhàng đậu xuống trước nhà họ Liễu.
Nhưng lục tung cả nhà họ Liễu lên cũng không tìm thấy Dạ Hoa. Trái tim kích động này đã bị giội một gáo nước, buốt thấu tim.
Ta thất vọng ra khỏi nhà họ Liễu, tìm một nơi yên tĩnh hiện hình, ngẫm nghĩ, rồi lại đến tìm một nô tỳ trước phủ nhà họ Liễu hỏi han, hỏi thì mới biết Dạ Hoa mấy năm trước đã vinh danh bảng vàng, đang làm quan dưới chân thiên tử trần gian.
Nô bộc nhà họ Liễu ngẩng lên nhìn trời xanh thăm thẳm, mắt không giấu nổi vẻ tự hào: “Đại thiếu gia nhà tôi là thần đồng trăm năm mới có, kỳ tài, quả là kỳ tài, mười hai tuổi đã vào nhà Thái học, năm năm trước hoàng đế mở ân khoa, thiếu gia thi lấy lệ cũng đã đỗ Trạng nguyên, từ chức Biên tu trong Hàn lâm viện đã rộng đường công danh, nay đã làm Thượng thư bộ Hộ, kỳ tài, quả là kỳ tài”.
Ta chẳng hề hứng thú với việc Dạ Hoa làm chức quan gì, nhưng biết được nơi chàng ở thì rất vui mừng, bèn xốc lại tinh thần, niệm chú gọi mây xanh, đến cung điện của thiên tử chỗ chàng.
Chú thích:
42. Long cốt: xương rồng.
43. Tri túc thường lạc: Tự thấy đủ sẽ thường thấy vui (ND).
44. Nguyên văn: Thúc Hướng kiến Hàn Tuyên Tử, Tuyên Tử ưu bần, Thúc Hướng hạ chi. Trích trong “Tả truyện” (ND).
---------------------------------------
Chương 22: Sau đèn Kết Phách, mối bi tình đó tới tới lui lui
Ta tìm Dạ Hoa trong hậu hoa viên của phủ Thượng thư.
Khi ta tìm đến, chàng vận thường phục bằng lụa màu đen, đang đứng nâng chén ngắm hoa đào cùng một người con gái vận đồ trắng. Ở chỗ chàng ngồi, phía trên là một cây hoa đào đang thắm sắc.
Người con gái vận đồ trắng ngồi đối diện chàng dường như nói câu gì đó, chàng nâng chén rượu trên bàn, cười rạng rỡ với người con gái ấy, người con gái đó lập tức thẹn thùng cúi đầu.
Nụ cười này của chàng vừa rạng rỡ vừa thân thiết, nhưng trong mắt ta lại cực kỳ gai mắt. Sáu ngày không gặp, chàng coi vật đính ước của ta là đồ bỏ, chẳng phải rước cho ta một món nợ tình tạp nham sao? Nỗi ghen tức xộc lên, ta đang định đi vào để xem xem ngọn nguồn thế nào, thì sau lưng vang lên một giọng nói: “Đã lâu không gặp thượng thần, Tố Cẩm xin được thỉnh an thượng thần ở đây”.
Ta sững sờ, quay người lại.
Phép ẩn thân chỉ là phép thuật che mắt, có thể che mắt người phàm chứ không thể che mắt thần tiên. Nhìn Tố Cẩm xiêm y giản dị trước mặt ta thấy không quen cho lắm, bèn hỏi: “Sao ngươi lại ở đây?”.
Nàng ta nhìn ta, đáp: “Quân thượng một mình lịch kiếp dưới trần gian, Tố Cẩm sợ quân thượng cô đơn, nên cố ý làm một người quân thượng nhung nhớ, sắp đặt ở bên cạnh chàng. Hôm nay Tây Vương Mẫu mở hội trà, Tố Cẩm cũng được thiếp mời, tiện đường qua đây, nên xuống thăm người Tố Cẩm làm cho quân thượng, xem nàng ta có hầu hạ quân thượng chu đáo hay không?”.
Ta quay lại nhìn người con gái áo trắng đang đứng bên Dạ Hoa. Vừa nãy không để ý, bây giờ nhìn lại, quả nhiên người con gái đó chỉ là một con rối đội da người. Ta lấy chiếc quạt ra, lạnh lùng buông một câu: “Chu đáo quá”.
Nàng ta nhìn ta ân cần, nói: “Thượng thần có biết Tố Cẩm làm con rối theo mẫu của ai không?”.
Ta nghiêng đầu nhìn dò xét, nhưng không cảm thấy gương mặt của người con gái áo trắng kia có điểm gì đặc biệt.
Ánh mắt nàng ta trở nên xa xăm: “Thượng thần có bao giờ nghe tới cái tên Tố Tố không?”.
Lòng ta run rẩy. Tiểu thần tiên Tố Cẩm gần đây quả có tiến bộ, vừa mới gặp đã có thể xéo đúng lên nỗi đau của ta. Sao ta lại không biết mẫu thân đã nhảy xuống Tru Tiên đài của cục bột, phu nhân trước mà Dạ Hoa hết lòng yêu thương tên là gì chứ. Nhưng từ sau khi ta khám phá ra tình cảm của mình dành cho Dạ Hoa, thì đã gói ghém tất cả tin đồn về mẫu thân của cục bột nhỏ, vứt vào trong hòm, khóa ba tầng khóa, thề rằng sẽ không bao giờ mở hòm ra, để bản thân khỏi phải tự tìm đau khổ. Ta không phải là người đầu tiên Dạ Hoa yêu, mỗi lần nhớ ra lại càng nuối tiếc, đau đớn. Nhưng số phận đã như vậy, ta cũng không hề oán trách, chỉ có thể thở dài than rằng số không may, đường tình trắc trở mà thôi.
Tố Cẩm liếc nhìn thần sắc của ta, nói: “Thượng thần không cần phải lo lắng đâu, bây giờ quân thượng chỉ là một người phàm trần, mới không nhận ra người trước mặt chàng chỉ là một con rối, có thể tác thành, khiến giấc mộng mà lòng chàng khao khát trở thành hiện thực. Đợi quân thượng quay về chính thân, cho dù con rối đó có mang gương mặt của Tố Tố, thì theo tính cách của quân thượng, sao có thể quan tâm đến một con rối chứ?”.
Có phải nàng ta đang muốn nói cho ta hay, bây giờ Dạ Hoa đã rất quan tâm tới con rối này không?
Ta cười ha ha, nói: “Ngươi không sợ sau khi Dạ Hoa trở về chính thân, nhớ ra chuyện ngươi đã lừa chàng, sẽ trách tội ngươi sao?”.
Nét mặt nàng ta cứng đờ, gượng cười đáp: “Tố Cẩm chẳng qua chỉ làm một con rối, đặt ở trên đường trước cửa phủ của quân thượng, nếu quân thượng không có ý với nó, thì hai người cũng chỉ là vô duyên thôi. Nhưng quân thượng vừa nhìn đã yêu mến, đưa nó về phủ. Nếu đến lúc đó quân thượng trách tội Tố Cẩm, Tố Cẩm cũng đành chịu”.
Lồng ngực ta căng tức, chỉ mân mê chiếc quạt không nói gì.
Nàng ta lại nở nụ cười dịu dàng, nói: “Có thể thấy, nếu đúng là yêu một người đến khắc cốt ghi tâm, thì dù uống nước Vong Xuyên của U Minh Ti Minh Chủ, cũng vẫn có ấn tượng, đầu thai rồi vẫn yêu người đó. Đúng rồi”, nàng ta ngưng lại giây lát, thong thả nói tiếp, “Thượng thần có biết, ba trăm năm nay, quân thượng luôn chong đèn Kết Phách để tập hợp khí trạch của Tố Tố không?”.
Trong đầu ta bỗng ầm một tiếng, khiến ta không phân biệt nổi phương hướng, lồng ngực căng tức, cồn cào.
Chàng, Dạ Hoa trước đây định tái tạo một Tố Tố sao?
Cái đêm của sáu hôm trước, khi ta ngồi bên cạnh giường Dạ Hoa, chàng còn không nhận ra ta, chàng nói không nhận ra. Sáu năm sau, chàng lại dẫn một người con gái không quen biết về nhà. Quả đúng là chàng yêu ta chẳng sâu sắc bằng chàng yêu Tố Tố khi xưa, nên mới không nhận ra ta. Hoặc giả, hoặc giả, chiếc hòm có ba lần khóa kia đã mở ra, hoặc là chỉ vì khi ta băng mắt có vài phần giống với phu nhân trước, nên Dạ Hoa mới dần dần yêu ta? Đầu óc rối loạn, ngực đau căng tức, tim ta nhói buốt.
Nhưng dù đầu óc hỗn loạn, ta vẫn khâm phục bản thân, ra vẻ thượng thần rất đạt, ta ung dung nói: “Ngươi quả am hiểu chuyện ái tình, đúng là am hiểu như thế mới có thể chịu đựng được sự coi thường của Dạ Hoa, còn có thể làm thứ phi của chàng suốt hơn hai trăm năm. Trong đám tiểu bối bây giờ, ngươi có thể coi là một kẻ có tầm nhìn, con rối ngươi làm rất tinh xảo, để nó bên Dạ Hoa cũng tốt, đỡ cho bản thượng thần phải nhọc công. Sau này nếu Dạ Hoa có trách ngươi gạt chàng, bản thượng thần sẽ nói đỡ cho ngươi”.
Nụ cười của nàng ta đông cứng trên gương mặt, mãi sau mới khóe môi, nói: “Đa tạ thượng thần”.
Ta giơ tay xua xua, nói: “Để lỡ hội trà của Tây Vương Mẫu thì không hay đâu”.
Nàng ta cúi đầu quỳ gối: “Vậy Tố Cẩm xin lui trước”.
Tố Cẩm đi rồi, ta quay đầu lại nhìn, con rối đó đang cùng Dạ Hoa uống rượu. Mấy cánh hoa đào nương theo gió rụng xuống, bay lả tả, vương trên tóc Dạ Hoa. Con rối đó giơ bàn tay trắng như ngọc như ngà, phẩy nhẹ một cái, mấy cánh hoa đào rớt xuống đấy. Nó ngẩng đầu lên nhìn Dạ Hoa cười thẹn thùng, Dạ Hoa không nói gì, uống cạn chén rượu. Đầu ta đột nhiên đau buốt.
Tứ ca hay nói, ta chẳng chịu suy nghĩ, luôn tùy ý hành động, may mà cha mẹ ta giỏi giang, ta mới không phải thiệt thòi, nhưng ta cũng không ít lần làm mất thể diện tộc Cửu Vỹ Bạch Hồ nhà ta. Cố nhiên ta cảm thấy huynh ấy còn làm nhiều chuyện mất thể diện hơn ta, nhưng niệm tình huynh ấy lớn hơn ta, nên ta cũng nhường huynh ấy.
Giờ đây, ta mới thấy huynh ấy nói có lý. Ta hành động hết sức tùy ý, không hề suy nghĩ. Ví dụ như lúc ban đầu Dạ Hoa bày tỏ với ta, chàng nói chàng thích ta, chàng nói còn ta nghe, nhưng chưa bao giờ nghĩ rằng trong toàn thể nữ thần của bốn bể tám cõi, sao chàng chỉ yêu mình ta, cho dù sau này ta cũng yêu chàng, hai bên tình nồng ý đượm, cũng không hề hỏi chàng chuyện quan trọng này. Nếu như chàng thực sự vì mẫu thân của cục bột nhỏ mới thích ta, thì người thế thân Bạch Thiển ta với con rối đang uống rượu với chàng kia, đâu có gì khác nhau. Tuy cũng biết rằng so đo với người đã mất là hẹp hòi, nhưng tình yêu lại thực sự không thể tính tới thể diện hay độ lượng được.
Ngọn lửa ghen tuông ngùn ngụt, ta day day góc trán, cảm thấy lúc này nên ngẫm nghĩ kỹ một số chuyện về Dạ Hoa, bèn bắt quyết gọi một đám mây, rồi lú lú lẫn lẫn bay về Thanh Khâu.
Tối nay, ta đem đèn Kết Phách ra ngắm nghía dưới ánh sáng của viên dạ minh châu. Chiếc đèn này luôn đặt ở chỗ Tây Hải đại hoàng tử để giúp y dưỡng thần, sau khi Mặc Uyên tỉnh lại đã được Chiết Nhan lấy về và đặt ở Thanh Khâu. Lúc trên Cửu Trùng Thiên, Dạ Hoa không hỏi tới, còn ta cũng quên đem trả.
Dưới ánh sáng trắng của viên dạ minh châu, cây đèn Kết Phách ấy khêu lên một ngọn lửa nho nhỏ bằng hạt đậu, trông chẳng có gì đặc biệt cả. Đâu có ai ngờ, trong cây đèn không có gì đặc biệt này lại chứa khí trạch ba trăm năm của một người phàm.
Ta càng nghĩ lòng càng chùng xuống, lời của Tố Cẩm tuy không thể tin hoàn toàn, nhưng còn lời của tiểu tiên nữ Nại Nại trên Thiên Đình làm chứng, bây giờ ta đã rảnh rỗi để chắp ghép từng chuyện lại, ba trăm nay quả nhiên Dạ Hoa tình sâu như biển với mẫu thân của cục bột nhỏ. Một người nặng tình như chàng, một mối tình sâu như biển ấy, sao chỉ mới ba trăm năm mà đã có thể tan thành mây khói được, sao có thể vừa nhìn thấy bản thượng thần là lập tức thay đổi tình cảm được đây?
Ta càng nghĩ càng cảm thấy ngọn lửa ghen tuông trong lòng bốc lên ngùn ngụt, lan đến tim phổi, cháy bùng lên. Ta yêu Dạ Hoa vì chính con người chàng, nếu như chàng có tướng mạo giống với sư phụ Mặc Uyên, ta cũng chưa bao giờ coi chàng là Mặc Uyên, dù chỉ là một khắc. Nếu như ta coi chàng là thế thân của Mặc Uyên, thì e rằng mỗi lần nhìn thấy chàng ta đều cung kính thưa hỏi, không dám khinh nhờn một chút nào.
Ta đã yêu chàng như vậy, nên cũng mong chàng đối xử lại với ta như thế. Nếu như vì ta giống mẫu thân của cục bột nhỏ, mà chàng lại không nguôi thương nhớ mẫu thân của cục bột nhỏ nên mới chuyển sang ta, thì Bạch Thiển ta không thể nhận sự yêu mến này của chàng.
Mê Cốc đứng bên ngoài khẽ giọng gọi: “Cô Cô, có cần ta dâng ít rượu lên không?”.
Ta im lặng đồng ý.
Rượu mà Mê Cốc dâng lên đều là rượu mới nấu, hơi cay nồng còn chưa được êm lắng, đi vào trong miệng, họng lập tức cay xè, đầu óc ta càng trở nên choáng váng hơn. Có lẽ hôm nay Mê Cốc thấy ta có tâm sự, nên mới cố ý chọn ra loại rượu mạnh này, hễ được lệnh là đem vào trong phòng ta.
Ta uống tới mức một cây đèn Kết Phách trước mắt biến thành mười cây, cảm thấy uống khá say, mới đứng dậy loạng choạng đi ngủ. Mơ mơ màng màng nhưng không ngủ được, luôn cảm thấy trên bàn có thứ gì đang tỏa sáng, rất chói mắt, chẳng trách ngủ không được. Ta ngồi bên mép giường, nheo mắt nhìn, hóa ra là một ngọn đèn. A, có lẽ là cái đèn Kết, kết gì đó…
Ta nghĩ mãi mà không nghĩ ra.
Ngọn đèn đó chiếu sáng khiến trái tim người ta rối bời, toàn thân ta mềm nhũn không bò nổi dậy, cứ ngồi cách bảy, tám bước mà thổi ngọn đèn trên bàn, thổi mãi mà không tắt, muốn dùng pháp thuật để tắt đèn nhưng nhất thời chẳng nhớ nổi một phép thuật nào để thổi tắt đèn cả. Ta rên rỉ một tiếng “đen đủi”, dứt khoát bắt quyết chĩa về phía chiếc đèn Kết gì đó, “choang” một tiếng, ngọn đèn đó hình như vỡ tan. Cũng tốt, ngọn lửa trong đèn đã tắt rồi.
Sau cơn giày vò ấy, trời đất quay mòng mòng, ta lập tức ngã xuống giường ngủ say như chết.
Ta ngủ li bì hai ngày liền, khi ngủ cũng nhớ ra rất nhiều chuyện cũ.
Hóa ra năm trăm năm trước, Kình Thương phá vỡ chuông Đông Hoàng, sau khi ta cố gắng nhốt hắn vào trong, chẳng hề giống như cha mẹ ta vẫn nói là ngủ liền hai trăm mười hai năm trong động Hồ Ly, mà bị Kình Thương gieo một phong ấn trong người, rơi xuống núi Tuấn Tật ở Đông Hoang.
Cái gì mà Tố Tố, cái gì mà mẫu thân của cục bột nhỏ, cái gì mà người phàm nhảy xuống Tru Tiên đài, đó căn bản đều là bản thượng thần ta – khi ấy vẫn còn vô năng, vô tri.
Ta còn thắc mắc là lúc thăng lên làm thượng thần, mình đã lịch kiếp như thế nào, chẳng qua đánh với Kình Thương một trận, ngủ vỏn vẹn có hai trăm mười hai năm, rồi trong giấc mộng say lại được thăng làm thượng thần. Ba trăm năm trước trong động Hồ Ly, khi tỉnh dậy, ta mắt chữ O miệng chữ A nhìn nguyên thần của mình từ ánh sáng bạc chuyển thành ánh sáng vàng lấp lánh, còn tưởng rằng ông trời ưu ái ta, cảm kích đến mức cảm thấy ông trời quá nhân từ.
Ta đâu biết, trận đánh với Kình Thương kia chỉ là một ngòi nổ, mà kiếp nạn ta phải trải qua để được thăng làm thượng thần, lại chính là tình kiếp. Ta phải hy sinh trái tim không nói, mà còn phải hy sinh cả đôi mắt. Nếu không phải Kình Thương phong ấn tiên nguyên của ta, thì nhảy xuống Tru Tiên đài ta còn phải hy sinh toàn bộ tu vi. Ông trời hành sự chẳng hồ đồ chút nào, nhân từ, nhân từ, ông ta nhân từ cái cóc khô ấy.
Ta đã hiểu vì sao khi ở Thanh Khâu, Dạ Hoa ngập ngừng muốn nói rồi lại thôi; hiểu được cái đêm ở quán trọ dưới trần gian, cái câu “Ta mong nàng nhớ ra, lại mong nàng vĩnh viễn không nhớ” ta nghe được trong lúc mơ màng hoàn toàn không phải là ta ngủ mơ; tất cả đều có trước có sau, là năm đó Dạ Hoa đã để ta chịu oan, chàng cảm thấy có lỗi với ta. E là chàng mãi mãi không bao giờ hiểu được tại sao ta lại đặt tên cho cục bột là A Ly, mãi mãi không hiểu được tại sao ta phải nhảy xuống Tru Tiên đài.
Chuyện cũ lần lượt ào về như thác đổ, nỗi đau kéo dài suốt ba năm đó của ba trăm năm về trước mới như ngày hôm qua, cái gì là đại nghĩa, cái gì là đạo lý, cái gì là bảo vệ sự an toàn cho một người phàm như ta mà không thể không làm với không thể làm, đêm đêm một mình vò võ trong “Nhất Lãm Phương Hoa”, từng tia hy vọng nhỏ nhoi bị bóp nghẹt. Tình cảm ấy ào ạt chảy về, ta cảm thấy cõi lòng bi thương vô tận. Ba năm đó, bản thượng thân sống vô dụng biết bao, đau đớn biết bao.
Ta cảm thấy với tâm trạng của mình giờ đây, nếu thành thân với Dạ Hoa vào tháng mười, e rằng hơi khó. Ta biết rằng mình vẫn còn yêu chàng. Ba trăm năm trước ta bị chàng mê hoặc đến mức đầu óc choáng váng; ba trăm năm sau lại bị chàng mê hoặc đến mức đầu óc mụ mẫm; đây là oan nghiệt. Ta không thể ngăn được mình yêu chàng, nhưng nghĩ đến chuyện ba trăm năm trước, trái tim yêu chàng như trồi lên một cái nhọt, cái nhọt này lại chẳng thể tiêu tan. Thế nên, ta cũng chẳng thể tha thứ cho chàng.
Mê Cốc bưng nước vào trong phòng cho ta rửa mặt, nhìn ta một lúc, lão nói: “Cô cô, có cần ta đi lấy thêm chút rượu nữa không?”.
Ta giơ tay sờ lên mặt, mới phát hiện nước mắt đẫm tay mình.
Mê Cốc dâng rượu lên thật. Bữa trước ta uống bảy, tám vò, cứ tưởng đã uống hết sạch rượu tứ ca cất giữ, Mê Cốc vẫn còn có thể dâng thêm năm, sáu vò, chứng tỏ trong gian nhà tranh của lão cất giữ không ít rượu.
Mỗi khi ta uống say thì sẽ ngủ, tỉnh lại uống, lại say rồi lại ngủ, cứ lặp lại một cách đơn điệu như vậy ba, bốn ngày. Đến chạng vạng tối ngày thứ năm thì tỉnh, Mê Cốc đang ngồi trong phòng ta, nói: “Cô cô lo lắng đến bản thân một chút đi, trong động không còn rượu để mang lên nữa rồi”.
Mê Cốc quá lo, bản thân ta đâu cần lo lắng gì, chỉ là mệt mỏi quá thôi, không vô dụng như Phượng Cửu, thất tình uống tí rượu vào là say đến nỗi ói mật xanh mật vàng. Qua lần tôi luyện này, tửu lượng của ta còn tăng tiến không ít.
Không có men rượu mạnh, đầu ta lại tỉnh táo trở lại. Đầu óc tỉnh táo khiến ta nhớ một chuyện quan trọng mà dù thế nào cũng không thể quên. Đôi mắt của ta đang sống trong hốc mắt của Tố Cẩm, nên đòi nó trở về rồi.
Khi đó ta trải qua tình kiếp, bị Tố Cẩm nhân cướp mất đôi mắt. Bây giờ ta đã lịch kiếp xong, đôi mắt ta vẫn để trong hốc mắt nàng ta là không được, nàng ta nuôi đôi mắt của ta hẳn cũng thấy không tự nhiên.
Chọn ngày chẳng bằng gặp ngày, ta gọi quạt Côn Luân đến, soi gương chỉnh sửa lại dung nhan. Haizz, sắc mặt ta nhìn không tốt lắm, để không mất thể diện của Thanh Khâu, ta đành lấy hộp phấn ra, thoa ít phấn lên.
Mặt mày rạng rỡ, ta lên Cửu Trùng Thiên, ta bắt quyết, dễ dàng lách qua đám thiên binh thiên tướng canh Nam Thiên Môn, đi thẳng một mạch đến điện Sướng Hòa của Tố Cẩm nằm trong khuôn viên Tẩy Ngô cung.
Nàng “mẫu mực” quả rất biết hưởng phúc, nàng ta đang nằm trên giường quý phi an nhàn nhắm mắt dưỡng thần.
Ta hiện thân, một tiên nga thị tỳ vừa bước vào điện trông thấy đã kêu “á” một tiếng. “Mẫu mực” liền mở choàng mắt, nhìn thấy ta thì sững người, miệng vẫn giả lả: “Thượng thần giá đáo, Tố Cẩm vô cùng sợ hãi”. Động tác trở mình xuống giường lại cực kỳ chậm rãi, bình thản thong dong, quả là “vô cùng sợ hãi”.
Ta ngồi một bên. Nàng ta ra vẻ tươi cười, cởi mở, nói; “Tố Cẩm đoán thánh ý của thượng thần, có lẽ là đến để hỏi thăm tình hình gần đây của quân thượng. Nếu nói đến quân thượng”, ngừng lại một lát, lại cười vẻ vô cùng cởi mở, “Tố Tố ở trần gian kia, vẫn sống cùng quân thượng rất vui vẻ, chăm sóc quân thượng rất chu đáo”.
Nụ cười làm nền cho đôi mắt sáng lấp lánh trên gương mặt, ta sờ lên mặt chiếc quạt, ra vẻ ung dung, nói: “Nếu như thế này, tự nhiên là tốt nhất. Dạ Hoa đã có ngươi chăm sóc, ta cũng an tâm, còn hôm nay, ta lại muốn quan tâm tới ngươi một chút”.
Nàng ta nghi hoặc nhìn ta.
Ta cười đoan trang: “Tố Cẩm, ngươi dùng đôi mắt của bản thượng thần đã ba trăm năm, dùng có tốt không?”.
Nàng ta ngẩng phắt đầu, máu trên khuôn mặt từ đỏ chuyển sang hồng nhạt, từ hồng nhạt chuyển sang trắng bệch, trong nháy mắt đổi ba màu, cực kỳ thú vị. Nàng ta nói với giọng run rẩy: “Vừa nãy ngươi, ngươi nói gì?”.
Ta xòe quạt, cười đáp: “Ba trăm năm trước bản thượng thần trải qua tình kiếp, đã đánh mất đôi mắt vào tay ngươi, hôm nay nhớ ra chuyện này, nên cố ý tới đây đòi. Theo ngươi, tự ngươi động thủ hay là bản thượng thần đích thân động thủ?”.
Nàng ta lùi về sau hai bước, va ngay vào thành giường quý phi đằng sau, nhưng dường như không hề hay biết, miệng lắp bắp: “Ngươi là, ngươi là Tố Tố?”.
Ta không bình tĩnh được nữa, xòe quạt: “Rốt cuộc là ngươi đích thân móc trả hay là bản thượng thần móc giúp ngươi?”.
Đôi mắt nàng ta thất thần, tay vặn xoắn tà áo, há miệng mấy lần, nhưng không nói được một câu hoàn chỉnh nào, như cười như khóc, nói: “Người đó, người đó rõ ràng chỉ là một người phàm, sao lại là ngươi, ả rõ ràng là một người phàm”.
Ta bước tới, rót một chén trà đặc còn bốc khói nghi ngút trên bàn, ngạc nhiên nói: “Một người phàm thì sao, một thượng thần thì sao nào? Chỉ vì ba trăm năm trước ta hóa thành một người phàm, yếu ớt vô dụng, một tiểu thần tiên như ngươi có thể đoạt đôi mắt của ta, lừa ta nhảy xuống Tru Tiên đài được sao?”.
Chân nàng ta mềm nhũn, loạng choạng ngã xuống, cứ lắp bắp “ta, ta” hồi lâu mà không nói được câu gì biện hộ.
Ta bước tới, đưa tay sờ lên hốc mắt của nàng ta, dịu dàng nói: “Gần đây bản thượng thần có chuyện vui, uống mấy vò rượu, tay hơi run, động thủ có lẽ sẽ đau hơn ngươi tự làm, ngươi thông cảm nhé!”.
Tay ta còn chưa hạ xuống, nàng ta đã kêu thét thất thanh. Ta vung tay phóng ra một đạo tiên chướng trùm lên trước điện Sướng Hòa, đảm bảo cho dù đám tiểu tiên đồng, tiểu cung nga có nghe thấy tiếng kêu của nàng ta cũng không vào trong được.
Ánh mắt nàng ta đã rối loạn, hai tay giữ chặt lấy tay ta, nói: “Ngươi không thể, ngươi không thể…”.
Ta buồn cười, vỗ nhẹ lên mặt nàng ta: “Ba trăm năm trước ngươi thích giả vờ yếu đuối, lúc nào ta gặp ngươi, ngươi cũng giả vờ yếu đuối, không thể để bản thượng thần mở mắt, nhìn xem lúc ngươi không yếu đuối trông thế nào? Lúc Dạ Hoa móc đôi mắt của ta nói nợ người ta cuối cùng vẫn phải trả, khi đó đôi mắt của ngươi sao lại không có, hai chúng ta đều hiểu rõ. Đôi mắt của ta sao lại lọt vào hốc mắt ngươi, hai chúng ta cũng đều hiểu rõ. Ngươi nói xem, tại sao ta không thể lấy lại đôi mắt của mình, lẽ nào đôi mắt của ta nằm trong hốc mắt của ngươi ba trăm năm, thì sẽ biến thành của ngươi sao?”.
Dứt lời ta ra tay dứt khoát, nàng ta kêu lên thảm thiết. Ta ghé tai nàng ta thì thầm: “Chuyện ba trăm năm trước, Thiên Quân âm thầm làm, chuyện hôm nay, ta cũng âm thầm làm. Khi xưa ngươi nợ ta hai món nợ, một là đôi mắt, hai là Tru Tiên đài. Món nợ hôm nay coi như ta đã bắt ngươi trả. Món nợ Tru Tiên đài, hoặc là ngươi đường hoàng nhảy xuống một lần, hoặc là ngươi nói với Thiên Quân, dùng tiên lực bé mọn của ngươi đến nhà lao ở bến Nhược Thủy canh chừng chuông Đông Hoàng nhốt Kình Thương, vĩnh viễn không lên trời nữa”.
Toàn thân nàng ta co rúm, có lẽ rất đau đớn. Nỗi đau này ta cũng từng trải qua, nên cũng đoán ra. Nàng ta đau đến mức không thể thở nổi, nhưng vẫn bướng bỉnh nhả ra ba tiếng: “Ta… quyết… không…”.
Không sai, không giả vờ yếu đuối với ta, cố gắng cứng rắn một lần. Ta nâng cao khuôn mặt đẫm máu của nàng ta lên, cười nói: “Ô? Vậy là ngươi muốn bản thượng thần đích thân đi nói với Thiên Quân. Nhưng con người ta xưa nay lúc này nói một đằng, lúc khác lại nói một nẻo. Nếu để ta đến nói với Thiên Quân, không biết lúc đó ta có nói như bây giờ không nữa”.
Cơ thể nàng ta cứng đờ, rồi tiếp tục đau đớn cuộn tròn lại. Ta thầm niệm một câu kinh Phật, thiện ác quả báo, đạo trời luân hồi.
Tất Phương lại đi mất, tứ ca lại đi tìm hắn. Trong rừng đào mười dặm chỉ còn một mình Chiết Nhan.
Khi ta đưa đôi mắt còn đẫm máu trong tay cho Chiết Nhan, lão kinh ngạc tột độ, đem ra soi xét cẩn thận rất lâu dưới ánh mặt trời, nói: “Đôi mắt bị trộm ba trăm năm vẫn có thể tìm lại được, thật là chuyện lạ”, rồi lại nói, “Ngươi đã uống thuốc của ta, giờ lại nhớ ra quá khứ đau thương khi trước, cũng là chuyện lạ”.
Đôi mắt này được lấy ra từ một tiên thể chưa đến bảy bảy bốn mươi chín ngày, nếu không thì chỉ có nước bỏ đi. Chiết Nhan cảm thấy lạ lùng, có lẽ lão tưởng đôi mắt ta mất hẳn, chẳng ngờ lại được đặt trên khuôn mặt của người khác, đến hôm nay mang đôi mắt này về, còn có thể đặt lại vào hốc mắt ta.
Ta gượng cười một cái.
Lão liếc nhìn thần sắc trên mặt ta, hẳn cũng đoán rằng ta không muốn nhắc lại chuyện cũ, nên cũng rất hiểu ý ho hai tiếng, không hỏi nhiều nữa.
Chiết Nhan nói lão cần mấy ngày để loại trừ hết những tạp khí trên đôi mắt này, sau đó mới thay mắt cho ta. Ta vui vẻ nhận lời, rồi nhân thể vòng ra sau núi đào mấy bình rượu lên, cưỡi mây bay về Thanh Khâu.
Cứ thế lại uống say mèm mấy ngày. Ta dặn Mê Cốc giúp ta để ý động tĩnh thứ phi của thái tử trên Cửu Trùng Thiên, mấy ngày này đóng cửa Thanh Khâu, ta không gặp ai cả. Rượu Chiết Nhan cất, quả nhiên ngon hơn rượu do Mê Cốc tích trữ rất nhiều, hôm qua say còn nôn ra dịch mật, đầu đau đến mức muốn cầm kiếm xuyên qua huyệt Thái Dương từ bên trái sang bên phải. Nhưng như thế cũng tốt, hễ nhắm mắt là trời xoay mòng mòng, sẽ không còn thời gian mà đi nhớ đến chuyện khác nữa.
Mê Cốc khuyên ta nên uống chậm lại, tạm thời không say rượu trong một, hai ngày, mà nên giữ gìn sức khỏe.
Nhưng lần này hoàn toàn khác với nỗi đau lòng trong quá khứ, hễ không say là ta không thể chợp mắt.
Khi ta say túy lúy thì chẳng biết trời trăng gì, nhưng nếu không say mèm, thì vẫn láng máng nhớ Mê Cốc thường nói chuyện với ta. Lão nói rất nhiều, đại khái là những chuyện không quan trọng. Có hai chuyện mà ta vẫn nhớ rất rõ, một là thứ phi thái tử trên Cửu Trùng Thiên mà ta rất để ý không hiểu sao cuối cùng cũng ngộ ra, dâng thư lên Thiên Quân, cam tâm tình nguyện xin rút khỏi Tiên tộc, đến bến Nhược Thủy vừa tu hành vừa giữ chuông Đông Hoàng. Thiên Quân cảm động trước ý tốt của nàng ta, bèn phê chuẩn; một chuyện nữa là thái tử Dạ Hoa lịch kiếp dưới trần gian, vốn đã uống nước Vong Xuyên không còn nhớ chuyện cũ, nhưng lại tin quỷ thần, dốc cả đời đi tìm tiên cảnh Thanh Khâu, tuy làm quan đến chức tể tướng nhưng suốt đời không lấy vợ, năm hai mươi bảy tuổi u uất bệnh mà chết, trăn trối người nhà đem thi thể hỏa táng, hợp táng với chuỗi ngọc thường đeo bên mình.
Ta không biết lúc Mê Cốc nói chuyện đó ta có rơi lệ hay không. Nếu như ta thực sự rơi lệ, thì vì sao lại rơi lệ chứ? Ta uống rất nhiều, đầu óc trở nên chậm chạp, nghĩ mãi mà không ra.
Qua mấy ngày, Mê Cốc hớt hơ hớt hải chạy vào động Hồ Ly, báo tin cho ta. Nghe nói thái tử điện hạ Dạ Hoa Quân trên Cửu Trùng Thiên, đã đợi bên ngoài cửa cốc Thanh Khâu bảy ngày, chàng muốn gặp ta.
Mê Cốc nói lão làm theo lệnh của cô cô, không dám cho bất cứ ai vào cốc, cho dù là Dạ Hoa cũng không dám cho vào. Nhưng bảy ngày trôi qua, Dạ Hoa vẫn chưa có ý muốn rời đi, lão không thể tự ý, nên đành đi vào thông báo với ta, xem ý ta ra sao.
Đầu óc ta cuối cùng cũng tỉnh táo lại.
A, Dạ Hoa ở trần gian hai mươi bảy tuổi đã tạ thế, hai nắm đất vàng chôn cất, đương nhiên sẽ trở chính thân.
Không hiểu tại sao, trong lòng đột nhiên nhói đau. Ta ôm tim, trượt theo chân bàn quỵ xuống, Mê Cốc định đỡ dậy, ta cản lão lại.
Dựa vào chân bàn, ta ngước nhìn xà nhà. Ta muốn gặp Dạ Hoa.
Ta muốn hỏi chàng ba trăm năm trước, vì Tố Cẩm phản bội chàng lấy Thiên Quân, nên chàng đau lòng, mới cắn răng lấy một người phàm trần không?
Chàng có thật lòng yêu ta không? Chàng để ta vò võ ba năm trong Thiên Cung lạnh lẽo, là vì muốn tốt cho ta sao? Khi chàng yêu ta, có phải vẫn yêu Tố Cẩm không? Nếu như yêu, vậy thì yêu sâu đậm bao nhiêu? Nếu như không phải ta bị lừa nhảy xuống Tru Tiên đài, có phải chàng sẽ cam tâm tình nguyện lấy Tố Cẩm không? Bây giờ chàng tỏ ra tình sâu nghĩa nặng với ta, có phải vì hối hận chuyện ba trăm năm trước không?
Càng nghĩ lại càng không muốn tiếp tục nghĩ nữa. Ta đưa tay che mắt, nước mắt trào qua kẽ tay. Nếu như chàng nói là “đúng” thì sao? Nếu như chàng nói toàn bộ là “đúng” thì sao?
Ta không biết mình có nên tự tay giết chàng không.
Mê Cốc đứng bên lo lắng nói: “Cô cô, gặp hay không gặp đây?”.
Ta thở dài, nói: “Không gặp. Nói với chàng rằng, chàng không cần đến Thanh Khâu nữa. Ngày mai ta sẽ tìm Thiên Quân từ hôn”.
Lúc lâu sau, Mê Cốc quay về, im lặng một lát mới nói: “Thái tử điện hạ, thần sắc của người rất xấu. Người đứng ở cửa cốc đã bảy ngày, một bước cũng không rời”.
Ta liếc lão một cái, tợp một ngụm rượu, không đáp lại.
Lão ngần ngừ rồi thưa: “Thái tử điện hạ nhờ ta chuyển lời tới cô cô. Người muốn hỏi cô cô, ban đầu cô cô nói, nếu khi ở trần gian người có vướng phải hoa đào, thì cô cô sẽ trói người mang về nhốt ở Thanh Khâu. Khi ở trần gian, ngoài mang một thị nữ có dáng vẻ giống cô cô lúc là người phàm, để hầu hạ mẫu thân bị bệnh ra, thì nửa đóa hoa đào ngài cũng chưa vướng bận, lúc đầu cô cô đã hứa với ngài, sao giờ lại không tính?”.
Ta hất bình rượu, quát to: “Không tính, cái gì cũng không tính, cút, ngươi bảo hắn cút đi, ta không muốn nhìn mặt hắn”.
Lòng đau như cắt, ta biết rằng không phải mình không muốn gặp chàng, chỉ là trong lòng có nút thắt, không biết phải gặp chàng ra sao.
Ngày thứ hai, ta vẫn chưa lên Cửu Trùng Thiên từ hôn, chỉ cảm thấy tạm gác lại đã, đợi khi nào tâm trạng thoải mái thì sẽ đi. Nhưng trong một thời gian ngắn, sợ rằng tâm trạng khó mà thoải mái được.
Ngày thứ ba, ngày thứ tư, ngày thứ năm, Mê Cốc nói Dạ Hoa vẫn đứng ở cửa cốc, không rời nửa bước. Ta nói với lão, nếu còn nhắc đến cái tên Dạ Hoa, thì sẽ đánh cho lão hiện nguyên hình là cây Mê Cốc một vạn tám nghìn năm trước, cuối cùng lão cũng ngậm miệng lại.
Ta không sao uống rượu được nữa. Vì từ khi biết Dạ Hoa đang đứng bên ngoài Thanh Khâu, mỗi lần uống, càng uống ta lại càng tỉnh, càng tỉnh lại càng đau lòng, càng đau lòng lại càng khó ngủ.
Mưa tí tách cả đêm, vì tinh thần ta rệu rã, nên trời vừa hửng sáng đã tỉnh dậy, cảm thấy mấy thành tiên lực dùng để phong ấn Kình Thương trên chuông Đông Hoàng năm trăm năm trước bị chấn động mạnh.
Tim ta nhói đau. Quả là mùa thu đa sự, gần đây hết việc này đến việc kia kéo đến, đúng không uổng danh hiệu “phiền não nhất là tiết sang thu”. Có lẽ, Quỷ Quân đời trước Kình Thương công đức đã viên mãn, sắp phá chuông Đông Hoàng mà ra rồi.
Ta vội vàng rửa mặt, sai Mê Cốc gấp rút đi rừng đào mười dặm chuyển lời đến Chiết Nhan, nhờ lão đến giúp ta một tay.
Năm trăm năm trước, khi lần đầu tiên Kình Thường phá vỡ chuông Đông Hoàng, ta cố gắng lắm mới có thể chặn hắn lại và nhốt hắn trở lại trong chuông. Nhưng đánh một trận cũng khiến chuông Đông Hoàng bị sứt mẻ, ta lại không thể chỉ dùng có năm thành tu vi mà vá lành nó được. Với ngần này tu vi còn lại trên người, vừa nhẩm tính thì liều tấn công cũng hỏng, mà lý trí phòng thủ cũng hỏng, nếu còn vài phần sáng suốt, cũng đủ biết là không thể đấu lại với hắn.
Nhưng Kình Thương không phải là kẻ lương thiện, bị nhốt ngần ấy năm, không chừng sau khi phá chuông Đông Hoàng chui ra, bạo tính lại bộc phát, lại đứng đầu tập họp thần thú của tám cõi tiêu diệt chư thiên, đốt cháy bốn bể tám cõi và ba nghìn thế giới thành tro bụi.
Nghĩ đến đây, những chuyện phiền não trăng gió canh cánh cả trong giấc mộng vừa nãy đã bay biến đâu cả. Ta lấy quạt Côn Luân, nhún mình vút lên một đám mây, tức tốc nhằm thẳng hướng Nhược Thủy mà đi, định bụng trước khi Chiết Nhan tới, phải cố gắng chống chọi, tuyệt đối không được để Kình Thương phá chuông Đông Hoàng thoát ra.
Ta biết rằng mình sẽ gặp Dạ Hoa ở cửa cốc. Chàng vẫn đứng chờ ở cửa cốc, nếu như ta ra khỏi Thanh Khâu, tất sẽ phải gặp chàng. Ta nhắm mát, giả vờ vô tình đi lướt qua chàng, thì một tay chàng níu tay áo ta lại. Khuôn mặt chàng trắng bệch khiến người ta phát hoảng, dáng vẻ tiều tụy, mệt mỏi thấy rõ.
Chuyện gấp gáp như thế này sao có thể ở đây lằng nhằng với chàng, ta quay đầu dùng quạt chém một nhát cắt đứt một nửa ống tay áo bị chàng giữ, roạt một tiếng, chàng sững người, nghẹn ngào thốt hai tiếng: “Thiển… Thiển”.
Ta không đáp, quay người tiếp tục bay đến Nhược Thủy. Ta liếc nhìn, chàng cũng cưỡi mây bám theo sau.
Nhiều năm về sau, ta luôn nghĩ, khi đó, khi đó cho dù ta chỉ nói với chàng một câu thôi, cho dù chỉ một câu thôi? Nhưng ta lại lạnh lùng nhìn chàng. Một câu cũng không nói. Nhìn xuống Nhược Thủy mờ mịt, sóng bạc dâng cao ngang trời, phía trên mây đen vần vũ, chuông Đông Hoàng như một tòa tháp cao đứng sừng sững bên bến Nhược Thủy, trong nháy mắt một tiếng nổ ầm rung chuyển một phương. Tố Cẩm đáng nhẽ phải trấn thủ chuông Đông Hoàng mất tăm mất tích, có lẽ nhìn thấy cảnh tượng này đã sợ hãi, tìm chỗ trốn rồi.
Trong tầng mây lơ lửng trên không trung đã nhìn thấy ló ra nửa cái đầu của thổ thần Nhược Thủy. Năm trăm năm trước ta đã có duyên gặp mặt với thổ địa này, y ló đầu từ trong mây ra, lo lắng nhìn chuông Đông Hoàng đang rùng lắc, thấy ta và Dạ Hoa, thì cuống quýt vái lạy, lo sợ nói: “Cô cô tiên giá, Nhược Thủy Thần Quân đã lên Thiên Đình cầu cứu rồi, lệnh cho tiểu tiên đứng đây chờ. Cơn tức giận của Kình Thương lần này cực kỳ khác lạ, phủ Thần Quân dưới sông Nhược Thủy cũng bị rung chuyển, miếu thổ địa của tiểu tiên cũng…”, y nói líu ra líu ríu, bỗng chuông Đông Hoàng dưới đất phát ra một luồng sáng cực lớn, trong ánh sáng trắng lờ mờ hiện ra một bóng người.
Ta thầm than hỏng rồi, đanh định lao xuống thì thân hình bị giữ chặt lại.
Dạ Hoa ở phía sau đã dùng dây trói, nhân lúc ta không để ý liền dùng định thân chú, giữa lúc sấm rền chớp giật còn dùng phép thuật trói hai chân hai tay ta. Ta không nhúc nhích được, trơ mắt nhìn Kình Thương sắp thoát khỏi chuông Đông Hoàng, vội hét lên: “Chàng thả thiếp ra”.
Chàng không đáp, mà đẩy ta sang cho thổ địa Nhược Thủy, khẽ nói: “Trông chừng nàng ấy cho cẩn thận, cho dù xảy ra chuyện gì cũng không được để nàng ấy ngã từ trên mây xuống”. Dứt lời lật bàn tay trái một cái, một thanh bảo kiếm sáng lóa lạnh ngắt hiện ra.
Ta trơ mắt nhìn chàng tay cầm bảo kiếm, đón gió xuống mây, lao thẳng vào luồn sáng bạc phát ra từ chuông Đông Hoàng, chỉ cảm thấy trời như sụp xuống, mấy lần há miệng nhưng nói không nên lời, cơn gió lạnh buốt quét qua khiến hai mắt ta đau buốt. Lúc Dạ Hoa lao vào luồng sáng bạc đó, ta nghe thấy mình gào lên một cách tuyệt vọng: “Thổ địa, ngươi thả ta ra, ngươi hãy nghĩ cách thả ta ra, Dạ Hoa chàng đâm đầu vào chỗ chết, trên người chàng đâu còn tu vi, chàng đâm đầu vào chỗ chết!”.
Thổ địa lầm rầm vâng dạ gì đó, có lẽ nói pháp thuật này quá huyền diệu, y không giải được, định thân chú này cũng rất kỳ quái, y cũng không giải được.
Cầu người không được đành phải cầu mình, ta ngưng khí định thả nguyên thần ra khỏi cơ thể, nhưng chẳng ngờ pháp thuật không chỉ khóa thân xác mà còn khóa luôn nguyên thần, ta giãy giụa cũng vô dụng mà thôi. Trong làn nước mắt mờ mịt, luồng ánh sáng bạc quanh chuông Đông Hoàng cũng dần dần tản đi, sấm rền chớp giật khi Dạ Hoa và Kình Thương đấu phép thuật dội thẳng lên trời. Thổ địa tạo một tiên chướng nho nhỏ bên cạnh chúng ta, để phòng ta bị chướng khí làm bị thương.
Pháp khí mà Dạ Hoa dùng để trói ta rất ghê gớm, ta mồ hôi đầm đìa mới giải được định thân chú, nhưng không làm sao thoát ra khỏi pháp khí này.
Giữa trời đất tối sầm, thổ địa nói với ta: “Cô cô, nơi này vẫn hơi nguy hiểm, tiên chướng của tiểu tiên không biết cầm cự được bao lâu, hay là chuyển chỗ đi”.
Ta nghe thấy giọng mình trở nên xa xăm: “Ngươi đi đi, ta ở đây cùng Dạ Hoa”.
Lúc này tuy ta bị trói, chỉ là đồ bỏ đi, chẳng giúp được Dạ Hoa, cho dù như thế, ta cũng muốn bên chàng, nhìn thấy chàng.
Ta chưa bao giờ nhìn thấy Dạ Hoa cầm kiếm, không ngờ chàng cầm kiếm lại có dáng vẻ này.
Nghe nói kiếm thuật của Dạ Hoa rất khá, cây kiếm trong tay chàng tên là Thanh Minh, đám tiểu tiên hâm mộ chàng tán tụng là “Thanh Minh vừa rút, chín châu hãi hùng”. Mới đầu nghe thấy, cảm thấy đó chỉ là lời khen ngợi sáo rỗng của đám tiểu bối, hôm nay chứng kiến hoa kiếm bay lượn do kiếm Thanh Minh tỏa ra, chín châu hãi hùng thực ra cũng hơi khoa trương, nhưng bóng kiếm quả khiến người ta hoa mắt, từng nhát từng nhát đều phát ra sấm sét, khiến mắt ta cay xè.
Hai người họ đánh rất kịch liệt, ta đứng quá cao, không thể nhìn rõ là ai đang giành phần thắng. Nhưng ta biết Dạ Hoa sẽ không cầm cự được lâu, ta chỉ mong chàng cầm cự được đến lúc Chiết Nhan tới, hay là đến lúc đám thiên binh thiên tướng vô dụng do ông nội chàng cử tới cũng được.
Bến Nhược Thủy cát bụi mịt mù, đất đá tung tóe. Bỗng nghe thấy Kình Thương cười dài ba tiếng, sau đó lại ho một trận, chậm rãi nói: “Hôm nay bại dưới tay ngươi, ta không phục. Nếu không phải vết thương năm trăm năm trước chưa khỏi, hôm nay ra khỏi chuông đã rất mất sức, thì tuyệt đối ta không thể thua một thằng nhãi như ngươi”.
Đám khói bụi vần vũ đã tan đi, Dạ Hoa chống kiếm xuống đất, một đầu gối nửa quỳ xuống mặt đất, nói: “Rốt cuộc ngươi vẫn bại”.
Trái tim treo lơ lửng của ta đã lắng xuống, ta run run nói với thổ địa: “Phía dưới ổn rồi, ngươi mau đưa ta xuống dưới…”.
Lúc thổ địa cuống quýt giải tiên chướng, chuông Đông Hoàng bỗng phát ra một luồng sáng màu đỏ như máu. Ta sửng sốt, Kình Thương chưa bại sao? Hắn đã thua rồi, vậy cớ sao chuông Đông Hoàng còn có thể mở ra?
Dạ Hoa cũng ngẩng phắt đầu, trầm giọng nói: “Ngươi đã làm gì trên chuông?”.
Kình Thương nằm trên mặt đất, yếu ớt đáp: “Ngươi muốn biết ư, tại sao ta chẳng chạm tới chuông Đông Hoàng, mà nó vẫn có thể mở ra ư, ha ha, chẳng qua ta dùng thời gian bảy vạn năm, phí bao tâm sức, đã hợp nhất tính mạng của ta với nó. Nếu ta chết đi, chuông Đông Hoàng sẽ tự mở. Xem ra ta cũng sắp chết rồi, không biết chôn cùng ta, là tên nhãi ranh nhà ngươi, hay là chúng tiên của tám cõi…”.
Hắn còn chưa dứt lời, mắt ta đã nhìn thấy Dạ Hoa lao vào đám lửa đỏ đó.
Là tiếng kêu xé gan xé phổi của ai: “Không!”.
Không, không thể? Hay là không cần, không được? Chuông Đông Hoàng mở ra thì sao, chúng thần của tám cõi bị tận diệt thì sao, chung quy hai chúng ta vẫn ở một chỗ, thiêu thành tro thì cũng chung một nắm tro, sao chàng, sao chàng có thể bỏ lại ta một mình chứ?
Khi Dạ Hoa lao vào đám lửa hừng hực như đóa sen đỏ của chuông Đông Hoàng, pháp khí khóa chân tay ta bỗng tan biến. Đúng rồi, nếu chủ nhân của pháp khí tu vi tiêu tan, thì pháp khí này sẽ tự nhiên không trói được người ta nữa.
Đám lửa như đóa sen đỏ đó đã cháy đỏ cả một nửa trời, bến Nhược Thủy quỷ khí âm u, ta dốc tu vi toàn thân trút vào quạt Côn Luân bắn về phía chuông Đông Hoàng. Chiếc chuông lắc một cái, trong ánh sáng màu đỏ đó, ta không tìm thấy bóng dáng Dạ Hoa.
Dường như những tiếng của ác hồn quỷ phách truyền đến, âm thanh đó dần dần tụ lại, giống như thiên binh vạn mã rầm rập lao tới, ầm – tiếng kêu bi thảm của chuông Đông Hoàng.
Ánh sáng đỏ lóe lên, rồi tắt ngấm. Một bóng người màu đen từ đỉnh chuông Đông Hoàng ngã xuống.
Ta lật đật chạy qua đón lấy chàng, bước được hai bước lại ngã nháo nhào xuống đất. Khuôn mặt chàng trắng bệch, khóe miệng còn rỉ máu, dựa vào vai ta, ánh mắt tối sầm. Chiếc áo bào màu đen đã nhuộm máu tươi, nhưng vì là màu đen, nên không nhận ra chàng toàn thân đẫm máu.
Chiết Nhan nói: “Ta luôn cảm thấy Dạ Hoa lúc nào cũng mặc đồ đen rất kỳ lạ, lần đó uống rượu với hắn, ta mới hỏi, ta cứ tưởng hắn thích nhất màu này, nhưng hắn nâng chén rượu hồi lâu, lại chỉ nói đùa với ta rằng, màu này không đẹp, nhưng rất thực dụng, ví dụ một hôm nào đó ngươi bị chém một nhát, máu thấm ra áo, cũng không biết là vệt máu, chỉ cho rằng ngươi bị va vào thau nước, bị nước hắt lên người, chứ không nhận ra ngươi bị thương, người lo lắng cho ngươi sẽ không đau lòng, kẻ thù của ngươi cũng không thể vì chém được ngươi mà thấy sung sướng”. Lúc Chiết Nhan kể cho ta, ta còn vui mừng vì cuối cùng Dạ Hoa đã biết bông đùa. Nhưng đến hôm nay, ta mới biết, những gì chàng nói là những điều chàng đã trải qua.
Ba trăm năm trước, khi ta hóa thành Tố Tố ngây ngô vô tri, tự cho rằng mình yêu chàng như máu thịt; đến khi mất đi hồi ức, chỉ là Bạch Thiển của Thanh Khâu, khi chàng nói yêu ta, dần dần khiến ta rung động trước chàng, cũng ngỡ rằng đó là yêu rất chân thành. Ta không thể tha thứ cho chàng năm đó đã không rõ trắng đen mà móc đôi mắt của ta, ép ta phải nhảy xuống Tru Tiên đài; không thể tha thứ bây giờ chàng luôn nói yêu ta, nhưng chẳng qua chỉ là món nợ năm xưa chàng nợ ta, nên cảm thấy hổ thẹn; không thể tha thứ cho chàng từ đầu chí cuối, chưa bao giờ hiểu ta. Nói cho cùng, Bạch Thiển ta sống ngần này tuổi, trong tình yêu lại ích kỷ đến mức vô lý, chấp nhặt dù chỉ là điều nhỏ nhặt nhất. Nhưng kiếp trước kiếp này, ta liên tiếp hai lần gặp đúng chàng, hai lần đều yêu chàng sâu đậm, bây giờ nhớ lại, ta cũng chưa từng hiểu chàng.
Ví dụ như tại sao chàng luôn vận đồ đen. Hóa ra không phải vì thích màu đen, mà vì không muốn người lo lắng cho chàng phải lo lắng, không muốn lộ vẻ yếu đuối trước mặt kẻ thù. Ta đã quên rằng, chàng luôn là người cắn răng chịu đựng và nuốt máu vào trong. Bảy vạn năm trước, khi Mặc Uyên dùng nguyên thần tế chuông Đông Hoàng, máu trong miệng nôn ra nhiều gấp trăm lần so với vệt máu rỉ ra từ khóe miệng chàng. Tu vi của chàng thua xa Mặc Uyên khi ấy, vậy số máu đáng nhẽ nhiều gấp trăm lần ấy đã đi đâu?
Ta cúi đầu cắn mạnh vào bờ môi chàng, hoàn toàn không chú ý đến cơ thể chàng khẽ run lên, chỉ cố dùng đầu lưỡi tách răng chàng ra, cố gắng tiến vào trong khoang miệng chàng, có thể cảm thấy thứ gì đó vừa nóng vừa tanh đang men theo khe hở do hai miệng áp vào nhau của ta và chàng ào ạt chảy ra, đôi mắt chàng càng lúc càng tối đen.
Ta cùng Dạ Hoa, trong kiếp này ta là Bạch Thiển, một tháng yêu nhau trên Cửu Trùng Thiên, lúc thân mật nhất chẳng qua cũng chỉ vài đêm.
Dạ Hoa đẩy ta ra, ho rũ rượi, ho ra từng ngụm từng ngụm máu lớn, máu đập vào mắt ta khiến mắt ta hoa lên. Cánh tay đẩy ta đã dùng hết sức tàn, chàng ngã dúi dụi trên đất, lồng ngực không ngừng phập phồng, nhưng không nhúc nhích nổi.
Ta bò qua ôm lấy chàng: “Chàng lại định nuốt máu vào ruột ư? Bây giờ chàng bao nhiêu tuổi, chàng yếu đuối thế nào, thiếp cũng không thất vọng gì cả”.
Khó khăn lắm chàng mới thôi ho, muốn giơ tay lên, nhưng không giơ nổi, rõ ràng đến nói cũng khó khăn, lại còn tỏ vẻ không sao, bình thản nói: “Ta không sao, vết thương này không sao đâu. Nàng, nàng đừng khóc”.
Ta ôm chàng bằng cả hai tay, không thể đưa tay sờ lên mặt chàng, chỉ có thể nhìn vào mắt chàng: “Dùng nguyên thần để tế chuông Đông Hoàng, ngoài Mặc Uyên ra, thiếp chưa từng thấy ai thoát khỏi số mệnh phải tan thành tro bụi, cho dù là Mặc Uyên, cũng phải ngủ bảy vạn năm. Dạ Hoa, chàng không lừa được thiếp đâu, chàng sắp chết, đúng không?”.
Cơ thể chàng cứng lại, nhắm nghiền mắt, nói: “Ta nghe nói Mặc Uyên tỉnh lại rồi, nàng hãy ở bên Mặc Uyên, người sẽ chăm sóc nàng thật tốt, còn tốt hơn ta nhiều lần, ta rất an tâm. Nàng hãy quên ta đi”.
Ta lặng người nhìn chàng.
Khoảnh khắc ấy dài như triệu năm, chàng trợn mắt, thở dốc nói: “Ta chết cũng không thể nói những lời này, cả đời ta chỉ yêu mình nàng, Thiển Thiển, nàng mãi mãi không thể quên ta, nếu nàng dám quên ta, nếu nàng dám…”. Giọng nói dần dần trầm xuống, rồi lại khẽ vang lên, “Ta biết làm thế nào?”.
Ta ghé sát tai chàng nói: “Chàng không được chết, chàng cố cầm cự một lát, thiếp đưa chàng đến tìm Mặc Uyên, người tất có cách”. Cơ thể chàng từ từ chùng xuống.
Ta ghé sát tai chàng gào lên: “Nếu chàng dám chết, thiếp lập tức đến tìm Chiết Nhan xin thuốc, thiếp sẽ quên hẳn chàng, một chút cũng không nhớ. Thiếp sẽ cùng Mặc Uyên, Chiết Nhan còn cả tứ ca sống vui vẻ, mãi mãi không thèm nhớ đến chàng”.
Cơ thể chàng run lên một cái, mỉm cười, nói: “Thế cũng tốt”.
Kiếp này, câu nói cuối cùng chàng nói với ta là, “Thế cũng tốt”.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét